Theo Lý thị gia phả và Tự thuật ký do Lý Văn Phức soạn thì tổ tiên Lý Văn Phức là người Trung Quốc, vì lánh nạn, sang Việt Nam ngụ cư tại làng Hồ Khẩu, sang Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Ba Đình, Hà Nội). Từ đó về sau con cháu trở thành người Việt. Lý Văn Phức tự Lân Chi, hiệu Khắc Trai, sinh ngày 1 tháng 10 năm Ất Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 46 (1785). Năm Gia Long thứ 18 (1819), ông đỗ cử nhân và được bổ nhận Hàm Lâm biên tu, rồi lên Lễ bộ Thiêm sự, đến Hộ Bộ Hữu thị lang, thự Hữu tham tri, vì mắc tội bị cách chức. Sau đó lại làm Nội vụ phủ tư vụ, lên Binh Bộ chủ sự, thự Công Bộ Hữu Tham tri. Được đặc cách bổ làm lễ Bộ Hữu tham tri, sung chức Chánh sứ, đi Yên Kinh Bắc kinh. Sau lại bị phạt nhưng ngay sau đó lại được thăng làm Quang lộc tự khanh. Năm 1849, sau chuyến đi Tân Gia Ba về, ông bị ốm rồi mất, hưởng thọ 64 tuổi. Lý Văn Phức viết nhiều tác phẩm bằng chữ Hán như: Tây hành ký; Mân hành tập vịnh; Tiên thành lữ thoại; Việt hành thi thảo; Việt hành tục ngâm; Kinh hải tục ngâm; Chu nguyên tạp vịnh; v.v... Ông cũng viết nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm, đặc biệt là thơ. Nổi tiếng là Nhị thập tứ hiếu diễn âm, rồi đến Sứ trình tiện lãm khúc; Tự thuật ký; Phụ châm tiện lãm; Bất phong lưu truyện; Chu hồi trở phong thán… Do khuôn khổ bài viết, ở đây chúng tôi chỉ xin giới thiệu một tác phẩm thơ bằng chữ Nôm do ông sáng tác, bị lược chuyện các tác giả Việt Nam(1) bỏ sót. Hơn nữa, tác phẩm này cũng chưa hề được công bố. Đó là Sứ trình tiện lãm khúc. Hiện nay, tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn giữ được 3 văn bản Sứ trình tiện lãm khúc: - Bản thứ nhất ký hiệu AB.400, sách chép tay, 24 tờ, khổ 30x17cm. Không có tựa, không ghi niên đại sáng tác, nhưng có ghi tên tác giả “Lý Văn Phức Lân Chi soạn”. Văn bản bao gồm 616 câu thơ Nôm song thất lục bát. - Bản thứ hai ký hiệu AB.274. Sách chép tay, 24 tờ, khổ 30x27cm. Không có tựa và niên đại sáng tác, nhưng có tên tác giả “Lý Văn Phức Lan chi soạn”. Văn bản này gồm 612 câu thơ Nôm song thất lục bát. - Bản thứ ba đóng gộp vào sách Hồi kinh nhật trình. Sách chép tay, chữ đẹp, ký hiệu VNv.217, khổ 24x 15cm. Có ghi tên tác giả và năm sáng tác ở cuối bài tựa: “Chánh sứ Lý Văn Phức Lân Chi trứ” (Chánh sứ Lý Văn Phức Lân Chi soạn). “Thiệu Trị nhân niên, xuân nguyệt chi thư” (Viết năm Thiệu Trị thứ hai, tháng xuân (1841)). Nội dung bài tựa nêu lý do, xuất xứ của tác phẩm. Sứ trình tiện lãm khúc: “Lúc đi sứ Yên Kinh, ghi chép đầy đủ các việc lớn nhỏ cùng phong cảnh trên đường. Khi về rảnh rỗi thâu tóm hết thảy, diễn thành thơ Nôm…”. Có lẽ vì vậy tác phẩm có tên Sứ trình tiện lãm khúc (khúc ngâm cuộc hành trình đi sứ để tiện xem). Qua các bài nêu trên, cùng nội dung bài tựa, ta thấy Sứ trình tiện lãm khúc là tác phẩm Lý Văn Phức sáng tác sau chuyến đi Yên Kinh do ông làm Chánh sứ. Đối chiếu so sánh cả ba văn bản Sứ trình tiện lãm khúc nêu trên, ta thấy bản mang ký hiệu VNv.217 có nhiều yếu tố gần với nguyên tác hơn. Do vậy, chúng tôi đã chọn bản VNv.217 làm bản nền cho việc phiên âm, chú thích tác phẩm. Sứ trình tiện lãm khúc (Viết tắt là STTLK) gồm 620 câu thơ Nôm, song thất lục bát, do Lý Văn Phức sáng tác năm 1841. Tác phẩm phác họa cho chúng ta một bức tranh tuyệt đẹp và đa dạng về cảnh vật thiên nhiên, núi sông, cây cỏ, v.v… trên đường đi sứ mà tác giả được mắt thấy tai nghe: Dòng sông khúc thẳng khúc quanh, Sóng êm hò lái gió thanh đưa buồm, Núi ai nhuộm đỏ lòm sắc đá, Đủ trống cờ nhân mã binh đao, Sườn non ai vẽ được nào, Truyền rằng binh mã Hoàng Sào phải không. STTLK giới thiệu được khoảng trên 100 di tích có giá trị, liên quan đến nhiều nhân vật lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc trên suốt chặng đường dài 8000 dặm từ Hà Nội tới Yên Kinh. Thí dụ: Tam Thanh động thiên thành như tạc, Vọng phu sơn ai tạc cho nên, Hãy còn dấu cũ tiên hiền, Nền dinh Lộc Mã, cảnh chiều Nhị Thanh Đáng chú ý là STTLK giới thiệu một cách tỉ mỉ nghi thức bang giao đương thời giữa Trung Quốc với Việt Nam từ cách xưng hô, nghi lễ đón tiễn; đến các hình thức, chế độ đón tiếp sứ thần… STTLK còn cho biết một số tập tục của nhân dân ở nhiều địa phương mà tác giả đi qua. Với khả năng sử dụng tiếng Việt thành thạo, tài làm thơ điêu luyện, cách quan sát cảnh vật sắc sảo, tinh tế, Lý Văn Phức đã thực hiện thành công ý đồ thuật lại chọn vẹn chuyến đi sứ dài 8000 dặm với thời gian một năm của đoàn sứ bộ Việt Nam do tác giả làm chánh sứ năm Thiệu Trị thứ nhất (1840). Dưới đây chúng tôi xin trích giới thiệu một số đoạn tiêu biểu của tác phẩm trường thi Sứ trình tiện lãm khúc để bạn đọc phần nào hình dung được giá trị của nó(*). ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() CHÚ THÍCH (1) Lược truyện các tác giả Việt Nam, Nxb. KHXH tái bản năm 1917, mục 485. Lý Văn Phức, tr.390. (2) Rồng bay: Kinh dịch có câu “Phi long tại thiên, đại nhân tạo dã” (rồng bay ở trên trời, là bậc đại nhân được sinh ra). Đây ý nói việc vua lên ngôi. Rồng bay Tân Sửu tức năm Tân Sửu (1841), năm vua Thiên Trị lên ngôi. (3) Giữ đạo giao lân: Giữ đạo giao hảo xóm giềng. (4) Đàn trì: Thềm son. “Mệnh đan trì” tức mệnh nhà vua. (5) Chính bái: Nghiêm chỉnh bái tạ. (6) Thượng lộ: Lên đường. (7) Tờ thông danh: Tờ ghi tên cho đi lại. (8) Giờ Ngọ: Từ 11h đến 13h trưa. (9) Khai quan: Mở cửa biên giới. (10) Lệ đón sứ thần: Khi mở cửa khẩu, quân hai bên phải chỉnh tề đội ngũ. Rồi bắn pháo chào mừng . Từ đây trở xuống các chú thích có dấu (*) là của nguyên tác. ( 1*) Đài Chiêu Đức ở phía Bắc của khẩu. ( 2*) Tang bồng là chí nam nhi: “tang”: cây dâu; “bồng” là cây cỏ bồng. Đời xưa dùng cây dâu làm cung; cỏ bồng làm tên. Cung tên là chỉ việc của con trai. Đây nói chí nam nhi là chí tung hoành cung kiếm. ( 3*) Tiền Ải: Tên đường. ( 4*) Mộ phủ: Tên công quán. ( 5*) Tân Thiêm: Tên đường. ( 6*) Thụ Hàng Thành: Tên công quán. ( 7*) Đường tấn: Ở Trung Quốc trong đất liền có lệ cứ 15 hoặc 20 dặm đặt một đường hoặc một tấn, hễ thấy sứ thần đi qua, phải bắn pháo, gõ la, quỳ đón. ( 8*) Công quán theo lệ, phải tiếp đoàn sứ thần 3 bữa ăn trong ngày. ( 9*) Ninh Minh giang: Sông Ninh Minh. (20*) Ý nói các địa phương có đoàn đi qua đều phải tiếp đón thật chu đáo. (2 *) 17 thuyền sắm tân: Gồm thuyền sứ 7, thuyền trường 8, và thuyền thông sự 2. (22*) Biện lễ giang thần: Tế thần sông. Đảo cát: lễ cầu may. Lễ vật do địa phương lo. (23*) Phát hiệu khai hành: Phát hiệu lệnh bắt đầu đi. (24*) Binh Mã Hoàng Sào: Tức Hoàng Sào Binh Mã, tên ngọn núi. (25*) Sa mão, bút giá: Hình núi giống như chiếc mũ, gác bút. (26*) Lá thiếp hồng: Thiếp bằng giấy hồng. Trên thiếp ghi họ tên bồi thần. (27) Lấy thảo đem thành: Lấy lòng thảo lòng thành. (28) Ý nói phải đón tiếp chu đáo để chọn vẹn tình nghĩa của phía chủ nhà. (29) Đào Khản: Đời người Tấn, được người đương thời coi như Khổng Minh. (30) Sĩ Vương: Tức Sĩ Nhiếp, người Đông Hán, từng làm thái thú quận Giao Chỉ. (3 *) Hồi Nhạn: Tên ngọn núi đầu tiên trong 72 ngọn núi ở Hành Sơn. (32*) Hành Sơn: tên huyện. (33) Tên núi, tại tỉnh Hồ Nam. (34) Ngọa Long chỉ Chư Cát Khổng Minh (Gia Cát lượng). (35*) Tiên nho: Chỉ các vị Chu Tử, Hàn Tử, Châu Tử và Hoàng Tử. (36) Bà Xiếu Mẫu: Người giúp Hàn Tín lúc còn hàn vi. (37) “Nhất phạn thiên kim”: “bát cơm ngàn vàng”, tích Hán Tín người thời Hán, lúc còn hàn vi, được bà Xiếu Mẫu cho ăn bát cơm. Khi Hàn Tín thành đạt vẫn nhớ ơn bà, trả bà ngàn lượng vàng. (38) Tức thư viện Hành Sơn. (39*) Độc Tinh: Tên nhà thơ Khuất Nguyên. (40) Hoài sa: Tên một tác phẩm trong Cửu chương (Sở tử của Khuất Nguyên. (41) Mịch La: Tên sông, nơi Khuất Nguyên trầm mình. (42) Vũ lộ: mưa móc. Đây ý nói ơn trạch. |
![]() |
<p class="MsoNormal" align="right" '="" style="text-align: right;">NGUYỄN ĐĂNGSự tích thánh Tản Viên là một truyền thuyết dân gian của ta có tự lâu đời. Đặc biệt là truyền thuyết này được cố định trên văn bản cũng rất sớm. Ngay từ đời Trần, Lý Tế Xuyên đã đưa vào trong sáchViệt điện u linh tập. Trần Thế Pháp và Kiều Phú cũng chép trongLĩnh Nam chích quái. Đến Ngô Sĩ Liên lại ghi vào Đại Việt sử ký toàn thư (phần Ngoại kỷ). Từ đó về sau thường thấy sao chép truyền thuyết này. Như Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú),Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam quốc sử diễn ca… và các sách truyện ký, dã sử, giai thoại. Trong dân gian Việt Nam, thánh Tản Viên được coi là một trong bốn vị thánh bất tử(1), của nước Nam. Ở nhiều địa phương đã tôn thờ thánh Tản làm Thành hoàng làng và lập miếu thờ phụng rất uy nghi. Chỉ tính riêng mấy tỉnh phía Bắc như: Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Tây, Thanh Hóa,… đã có 292 nơi thờ. Mỗi làng đều có ngọc phả riêng, ngoài những điểm chung về hành trạng, ở mỗi bản ngọc phả còn có đoạn giải thích rõ lý do thờ cúng và nghi lễ cúng tế. Trong số các sách và số ngọc phả kể trên, tuyệt đại đa số được biên soạn bằng Hán văn. Thỉnh thoảng mới tìm thấy một bản ngọc phả chép câu đối Nôm hoặc bài thơ Nôm. Trong một chuyến đi thực tế về xã Vật Lại, huyện Ba Vì (nay thuộc tỉnh Hà Tây), chúng tôi phát hiện ra một bản ngọc phả thánh Tản Viên chép bằng chữ Nôm, diễn ca theo lối thơ lục bát (từ đây trở xuống gọi làBản diễn ca). Bản diễn ca dày 16 trang, gồm 466 câu lục bát. Đây là một Bản diễn ca thần tích khá cổ, chưa rõ tác giả là ai? Thể thơ lục bát dùng trong văn bản khá cổ kính, rất gần với thể thơ trong Thiên nam ngữ lục, Thiên nam minh giám,… Trong văn bản không chỉ dùng nhiều từ Hán Việt, mà còn dùng nhiều từ cổ, như: Thừa lưa, chỉn, hối, ở ca, v.v… Từ “Song viết” cũng thấy xuất hiện một lần ở câu: Sơn hào song viết thừa lưa, Thói quen nên kẻ tiều phu trí mầu. (Câu 31, 32) Đặc biệt chữ “viết” có dùng dấu nháy. Về nội dung truyền thuyết, cơ bản giống với các bản ngọc phả thánh Tản Viên khác. Nhưng cũng có một vài chi tiết hơi khác. Chẳng hạn Bản diễn ca cho rằng Thủy Tinh đối đầu với Sơn Tinh, cũng vẫn là Hoàng tử con vua Thủy Tề được Sơn Tinh cứu nạn ngày trước. Sau này khi đánh nhau, Sơn Tinh giải thích: Chàng đà ra dạ tương tranh, Cho nên lỗi đạo đệ huynh chăng hòa. (Câu 393 - 394) Hoặc đoạn chép việc các loài thủy tộc bắt nhầm phải mẹ đức thánh Chèm (chỉ Lý Ông Trọng), nên bị đức thánh Chèm trừng trị: Hội đồng cá rắn biên giang Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay. Trả ơn thân mẫu khi nay Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng. (Câu 431 - 434) Như trên đã nhắc tới, Bản diễn ca còn dùng nhiều từ Hán Việt và từ cổ, hơn nữa có một số đoạn câu thơ chưa được chải chuốt. Nhưng nhìn chung, có thể ghi nhận đây là một bản diễn ca lịch sử có giá trị. Tuy chưa xác định rõ niên đại, song qua phân tích trên, có thể đoán định Bản diễn ca được biên soạn vào cuối đời Lê. Cùng với Thiên nam ngữ lục, Thiên Nam minh giám,…Bản diễn ca cũng cung cấp thêm một số tư liệu quý. Do vậy nó xứng đáng được đông đảo bạn đọc và những ai quan tâm đến lịch sử nước nhà biết đến. Toàn văn Bản diễn ca như sau: TẢN VIÊN SƠN TRUYỆN CỔ TÍCH ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() CHÚ THÍCH (1) Tứ bất tử: Đức Thánh Tản, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng, Đức Thánh mẫu Liễu Hạnh. (2) Phong đăng bách cốc: Được mùa, nhiều thóc lúa. (3) Án tuyết: Nơi học hành. (4) Gạo châu củi quế: Gạo như ngọc, củi như quế. (5) Lều tiện: Con lề nhỏ. (6) Nhan: Nhan Uyên; Khổng: Khổng Khâu. Hai nhân vật tiêu biểu cho Nho học. (7) Song viết: Chưa rõ nghĩa? (8) Thừa lưa: No đủ, sung túc. (9) Trí mầu: Khôn ngoan, thông tuệ. (10) Tần Hoàng: Vua nhà Tần, tương truyền Tần Thủy Hoàng ban sắc phong cho cây tùng chức Đại phu. (11) Trừ mộc khử ương: dẹp trừ ma mộc, loại bỏ tai ương. (12) Thiết phủ: Rìu sắt. (13) Sảy sa: Chợt sa xuống. (14) Pha: Phá tan. (15) Qua ưa: Rất tốt đẹp. (16) Hối: gọi. (17) Bên hà: bên sông. (18) Kích nhưỡng: Một trờ chơi dân gian thời cổ, thường tổ chức trong các ngày hội. Theo truyền thuyết, đời Nghiêu Thuấn thiên hạ thái bình, dân chúng khắp nới tổ chức lễ hội, có cả trò chơi kích nhưỡng. (19) Tiếng địch: Tiếng sáo thổi. (20) Đầu doi: Đầu bãi sông bồi. (21) Ngòi Tào: Tức Tào Khê, nơi trụ trì của Lục tổ Huệ Năng, của Thiền Tông. Về sau dùng để chỉ khung cảnh Tiên Phật kỳ diệu. (22) Sơn Tây: Tức tỉnh Sơn Tây, nơi có núi Tản. (23) Đồng mục: Trẻ chăn trâu. (24) Làm thương: Làm cho tổn thương. (25) Thái hoa thung thúc: Từng tấm lụa hoa. (26) Thiết: Tha thiết, đằm thắm. (27) Thọ Dương: Tên một vị Công chúa đời Tống của Trung Quốc, có nhan sắc tuyệt mỹ. (28) Ỷ la: Vóc lụa. (29) Trường An: Chỉ Kinh đô của đất nước. (30) Tú pháp: Pháp thuật kỳ lạ. (31) Ngõ: Dường như, có lẽ là. (32) Đến sơ: Đến sớm. (33) Vong: Quên. (34) Tiên binh: Quân đi trước. (35) Niên nga: Chưa rõ nghĩa? (36) Vua Chèm: Tức Lý Ông Trọng. (37) Hải tàng: Cung điện ở Biển. (38) Cửa Hát: Cửa sông Hát (39) Dây dây: Rõ ràng. (40) Ca: Ở, tại. |
Newer articles
Older articles