NGUYỄN VIỆT CHIẾN
WEDnesday - 02/10/2013 02:26
NGUYỄN VIỆT CHIẾN
Nguyễn Việt Chiến * Bút danh khác: Nguyễn Văn Nguyễn, Từ Kim Việt * Sinh ngày 8 tháng 10 năm 1952. Quê ở Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Tây (cũ). * Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (2000); Hội viên Hội nhà báo Việt Nam * Hiện đang làm việc tại Báo Thanh Niên ở Hà Nội
Nguyễn Việt Chiến
Tiểu sử:
* Bút danh khác: Nguyễn Văn Nguyễn, Từ Kim Việt
* Sinh ngày 8 tháng 10 năm 1952. Quê ở Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Tây (cũ).
* Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (2000); Hội viên Hội nhà báo Việt Nam
* Hiện đang làm việc tại Báo Thanh Niên ở Hà Nội
* Tác phẩm:
- Mưa lúc không giờ (Thơ, Nxb Hội nhà văn, 1992)
- Ngọn sóng thời gian (Thơ, Nxb Thanh Niên, 1998)
- Cỏ trên đất (Trường ca, Nxb Quân đội nhân dân, 2000)
- Những con ngựa đêm (Thơ, Nxb Hội nhà văn, 2003)
- Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân 1975 – 2005 (Phê bình tiểu luận, Nxb Hội nhà văn, 2007)
* Giải thưởng văn học:
- Giải nhì cuộc thi Thơ báo Văn nghệ (1989 – 1990)
- Giải nhì cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ quân đội (1998 – 1999)
- Giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội và Hội nhà văn Việt Nam cho tập thơ Những con ngựa đêm (2004)
–
Thoạt nhìn, thơ như là phái sinh trong nghiệp cầm bút của Nguyễn Việt Chiến. Bởi lẽ, viết báo mới là hoạt động chủ yếu và đồng thời, là hoạt động xác định tư thế công dân của ông rõ ràng, quyết liệt hơn cả. Tuy nhiên, sự thực, thơ mới là cách để ông hoàn thiện chính mình, cũng là cách để tiếng nói công dân đạt đến các chiều kích sâu rộng mà đời cầm bút hiếm khi có được. Nguyễn Việt Chiến, dưới danh vị nhà báo, là danh phận thi sĩ kiêu hãnh cô đơn, người sớm cát cứ tâm hồn mình hóa lẫn trong những hạt cát thầm lặng để phụng hiến một nghĩa lí trần đời: Câu thơ như cát mỗi chiều/ Đem theo chút ấm nắng nghèo vào đêm (Cát đợi)
Cũng như thế hệ mình, Nguyễn Việt Chiến sớm rời ghế nhà trường để bước vào chiến trường. Những trải nghiệm ngắn ngủi nhưng khốc liệt của cuộc chiến, một mặt, hằn sâu vào kí ức người cầm bút cựu chiến binh như thực tế bỏng rát nhất, mặt khác, là căn cớ thúc đẩy anh ta vấn đáp nội tâm, vấn đáp xung quanh và bứt phá lên như một người phát ngôn, người bình luận. Nguyễn Việt Chiến có được cơ hội và khả năng đó, dẫu muộn, nhưng đã không đứt gãy. Bốn mươi tuổi, ông xuất bản tập thơ đầu tiên, Mưa lúc không giờ, đã lạ, đã dự phóng trái chiều. Hơn chục năm sau, qua những Ngọn sóng thời gian và Cỏ trên đất, Nguyễn Viễn Chiến đã chính thức độc hành với Những con ngựa đêm. Tập thơ này, sự dày dặn hẳn là một lệch chuẩn thông thường, song, đáng nói hơn, chủ hướng cách tân thơ mới đích thực là mã lực để nó tạo bước rẽ ngoặt trên hành trình sáng tạo, tức cuộc thực nghiệm đã thuần thục và những truy đuổi tận cùng trong tư tưởng đã có mặt hợp lí ở cách lựa chọn khai phá. Chỉ với một sự vạm vỡ, bề thế và chồng chất những hình tượng, tiết tấu, ngồn ngộn ý tưởng…, Những con ngựa đêm, tự nó, bộc lộ ý muốn tiếp nối và chinh phục những cách tân thơ của tiền nhân còn dang dở, dĩ nhiên chưa thể mĩ mãn, nhưng đã là điểm chuyển dịch quan trọng trong tiến trình thơ Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Những con ngựa đêm, tuy vậy, dường như bị lãng quên, và nó vẫn là “kẻ lạ” ngay cả trong trường sóng thu nhận nó một cách chân thành. Chỉ biết, chính nhờ sự nhạy cảm cách tân trong sáng mà liền đó, Nguyễn Việt Chiến, với tư cách là người tuyển chọn và thẩm bình, đã làm nên tập tiểu luận Thơ Việt tìm tòi và cách tân 1975 – 2005. Tập tiểu luận này càng chứng tỏ, với ông, tìm tòi đổi mới thi ca có tính sống còn và như là kết quả của lao động miệt mài trên chính chuỗi điểm hội tụ giữa mình và các thế hệ.
Gần như là phẩm tính, thơ Nguyễn Việt Chiến chứa sẵn những vùng xoáy suy tư, ngẫm nghĩ, những bình luận và cảm luận. Chúng, thuở ban đầu, được sinh thành từ suy ngẫm về cuộc chiến, tỉnh táo và hoàn toàn chính kiến: “Chiến tranh là nơi ngọn cỏ/ Cao hơn tất cả chúng ta/ Những người lính bị đốn ngã/ Xanh xao hơn mọi hận thù” (Ký ức). Về sau, khi biên độ cảm luận nới rộng và trở nên phức tạp, thì cái đẹp, cái thật, cái giá trị… được tham chiếu, được thấu thị: “Hiền nhân và bạo chúa/ Thành bụi đất cả rồi/ Phù điêu nung từ đất/ Chỉ tạc hình em thôi” (Phù điêu cổ). Trong nhiều đối tượng hối thúc trí nghĩ nhà thơ lí giải, dò thấu thì con người là đối tượng gây nên nhiều bất lực nhất, đồng thời, cũng là nồng nàn, day dứt và thấm đẫm cảm xúc nhất. Bằng linh cảm và lòng quả cảm của mình, Nguyễn Việt Chiến tự phác thảo: “Con người/ – Kẻ suốt đời bị thương”; tự thú nhận: “Chúng ta không thể nào hiểu được ngôn ngữ của loài kiến/ Con người bất lực trong cách giải thích/ Bởi chúng ta chẳng có gì cả/Ngoài cát và mưa, và cỏ, những nỗi buồn…(Ánh sáng); tự định lượng: “Tôi cầm chính cả tôi lên/ Câu thơ nhặt được phía miền quạnh hiu”, và tự phân bua: “Ở miền đất chật dân đông/ Rối phải xuống nước để mong thành người”… Con người, rút cuộc, không thể đem lại góc nhìn thuần nhất và người viết, khi đã can dự vào những cật vấn về hạnh phúc, nỗi buồn khổ, cô đơn… của tha nhân thì chính anh ta, qua bản tường trình đồng vọng, đã hé lộ hành trạng thân phận cá nhân. Nguyễn Việt Chiến có bổn phận gìn giữ hành trạng ấy bởi một “niềm tin lành lặn” và bởi, như cỏ và cát, sự vĩnh hằng vẫn dành chỗ cho vẻ đẹp nhỏ bé, mỏng manh.
Để các ý tưởng, các luồng suy nghĩ va chạm, cọ xát, cấu trúc thơ Nguyễn Việt Chiến có sự đối lập từ tiêu đề như cách để làm rõ khái niệm: Những con ngựa đêm và trăng; Hầm tránh bom và kem ốc quế; Bản Cong – xéc – tô viết cho lưỡi dao mổ… và một sự hô ứng từ bên trong: Có dáng dấp một bản giao hưởng, với các đoạn khúc khác nhau để tạo thành các lớp sóng, báo hiệu sự giằng co giữa cái đa tôi vô hình trong một cái tôi hữu hình. Trong tập Những con ngựa đêm, có khá nhiều bài thơ chứa đựng đặc tính này: Trận mạc, Ánh sáng, Đêm, Trẻ em trên mặt đất, Phố… Trong vẻ khép kín bởi sự vận động liền mạch của nhịp điệu và ý tứ, chúng vẫn phô diễn sự cân bằng giữa tính ngẫu hứng và kỉ luật. Ngẫu hứng chờ đón các lát cắt mới đính vào văn bản và kỉ luật bởi không có sự ráp nối nào là không chịu sức ép của lí trí. Đọc thơ Nguyễn Việt Chiến, vì thế, dễ thấy đuối hơi, tri giác phải được dìm kín trong sự hỗ trợ của cảm giác một cách liên tiếp. Không khoan nhượng, ở khía cạnh nào đó, cũng là hạnh phúc của người đọc thơ ông.
Nguyễn Việt Chiến tỉnh táo: Trước vô cùng năm tháng/ Thơ mình sương khói thôi. Nhưng quả thật, ông là một người cách tân thơ thầm lặng!
(Để mở đầu cho cái viết [đang] dài hơi, về sau)