Hỡi ôi! Thế cục xoay vần, càn khôn dời đổi, bước thịnh suy hồ dễ mấy ai hay. Mở cửa bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây, luồng gió mới thổi qua miền quê lụa. Đã từng trải bao nhiêu sóng gió, tưởng vĩnh hằng trụ mãi với thời gian. Ai ngờ đâu bèo dạt mây tan, một quyết định tiễn về miền ký ức.
Điếu Hà Tây Tỉnh - Một áng Thiên cổ hùng văn
Phạm Duy Trưởng
Mây nước Ba Vì, ảnh: Phạm Duy Trưởng
Văn tế là bài văn được đọc trong khi cúng tế với nội dung nói về tính nết, công đức, sự nghiệp, và kỷ niệm của tiền nhân hay người thân mới qua đời để tỏ tấm lòng ngưỡng mộ và thương tiếc của người sống đối với người chết. Nhưng văn tế cũng dùng để châm biếm (Văn tế An Nam tạp chí của Tú Mỡ), để tế sống (Văn tế sống vợ của Trần Tế Xương), để tống tiễn quỷ thần, như Nguyễn Thuyên đời Trần làm bài văn tế Đuổi cá sấu về biển Đông.
Về hình thức, văn tế có thể là văn vần, văn xuôi, văn biền ngẫu... Trong thể văn cũ, văn tế thường được cổ nhân chia làm bốn phần: 1-Lung khởi (Mở đầu - Những câu nói về hoàn cảnh sáng tác của bài văn thường bắt đầu bằng mấy chữ "Than ôi", "Than rằng", "Thương ôi"...); 2-Thích thực (kể thành tích của chủ thể); 3-Ai vãn (Kẻ đứng tế hay viết bài văn tế tỏ lòng thương tiếc, kính trọng, ngưỡng mộ chủ thể); 4-Kết (nhằm truy điệu vong hồn, bày tỏ lòng tiếc thương và lời cầu nguyện, lời mời của người đứng tế đối với chủ thể)
Tỉnh Hà Tây có những bước thăng trầm sau:
Được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1965 theo Quyết định số 103-NQ-TVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 21 tháng 4 năm 1965 trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Sơn Tây và Hà Đông.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975 hợp nhất với tỉnh Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Năm 1978 hai thị xã Sơn Tây và Hà Đông, 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức của tỉnh Hà Sơn Bình cùng một số xã của các huyện Quốc Oai, Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín được chuyển về Hà Nội. Tuy nhiên thị xã Hà Đông vẫn tạm thời là tỉnh lỵ tỉnh Hà Sơn Bình. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 9 ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Hà Tây được tái lập và 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức cùng 2 thị xã Sơn Tây và Hà Đông được trả về cho Hà Tây, tổng cộng có 2 thị xã và 12 huyện. Khi đó tỉnh có diện tích là 2.169 km², với dân số 2.086.926 người.
Tháng 12 năm 2006 Thủ tướng chính phủ ký nghị định thành lập thành phố Hà Đông thuộc tỉnh Hà Tây với diện tích tự nhiên là 4.791,7ha, 228.715 nhân khẩu, có 15 đơn vị hành chính gồm bảy phường và tám xã.
Tháng 8 năm 2007 Thủ tướng chính phủ ký nghị định thành lập thành phố Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây có 15 đơn vị hành chính gồm 6 phường và 9 xã.
Từ 1 tháng 8 năm 2008, toàn bộ diện tích, dân số của tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội.
Nhân sự kiện này ông Phạm Việt Long làm bài "Văn tế tỉnh Hà Tây" theo thể văn Biền ngẫu (Biền là cặp ngựa đi sóng đôi). "Biền ngẫu" là lối đặt câu như những cặp ngựa song song, nghĩa là gồm những câu dài ngắn như nhau, nhịp điệu tương đồng, ý nghĩa đối nhau từng cặp.
Bài văn tế này gồm hơn bốn mươi cặp "Biền ngẫu", nhiều cặp có thể còn chưa được chuẩn, còn chưa được chỉnh. Những câu "gối hạc" còn chưa thật sự đắt so với nhiều bài văn tế cổ. Song toàn bộ bài văn này vẫn là một áng Thiên cổ hùng văn, có giá trị về mặt nghệ thuật. Đọc xong, thấy vô cùng xúc động vì tình cảm của tác giả đối với quê hương Xứ Đoài.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
VĂN TẾ TỈNH HÀ TÂY
(Điếu Hà Tây Tỉnh)
Hỡi ôi!
Thế cục xoay vần, càn khôn dời đổi, bước thịnh suy hồ dễ mấy ai hay.
Mở cửa bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây, luồng gió mới thổi qua miền Quê Lụa.
Đã từng trải bao nhiêu sóng gió, tưởng vĩnh hằng trụ mãi với thời gian.
Ai ngờ đâu bèo dạt mây tan, một quyết định tiễn về miền ký ức.
Nhớ linh xưa!
Sừng sững Ba Vì trấn biên cương phía bắc, Thánh Tản Viên uy ngự chốn linh thiêng.
Một dẻo Tây Nam, mây núi nước miên miên, Hương Tích động mở một trời phật pháp.
Dòng Đà Giang độc lưu lên phía Bắc, sông Tích hiền tuôn chảy xuống miền Nam.
Sông Đáy trong kết bạn với Nhuệ Giang, ôm ấp trọn cả bình nguyên trù phú.
Suối Yến mơ ngọt ngào quyến rũ, nụ cười ai ngây ngất nón Ba Tầm.
Tiếng ai ca vắt vẻo giữa rừng xuân, trái mơ vàng mọng căng niềm mơ ước.
Chùa Tây Phương giữa một miền non nước, bao năm rồi La Hán vẫn lặng im.
Đất Bối Khê cung kính vị thánh hiền, nhận liền anh chùa Trăm Gian linh ứng.
Trúc Lâm Môn bàn tay ai gây dựng. Vũ Khắc Trường ngồi đó với thời gian.
Vũ Khắc Minh kế tục hóa kim cương, chùa Đậu lành trở thành miền cổ tích.
Đền Đồng Quan thênh thang và cô tịch, khói hương say phơ phất bóng cửa trùng.
Tiếng đàn bay giữa Đại Lộ mênh mông, nhịp phách tiền nâng hồn người lên cõi.
Dòng Nhị Hà xôn xao sóng dội, phù sa hồng kết thành bãi Tự Nhiên.
Có ai người dội gáo nước thiêng, thăng hoa hết tình yêu và số phận.
Thấy đâu đây túp lều tranh yên ấm, trái tim vàng Chử Đồng Tử, Tiên Dung.
Sáo diều ai tha thiết giữa tầng không, hay khúc hát quần tiên ngày khánh hội.
Đất Đường Lâm bàn tay nào đắp đổi, đá ong xây ngôi vị của hai Vua.
Dòng sữa nào nuôi dưỡng từ ngàn xưa, Phủ Thường Tín sinh sáu ba Tiến Sĩ.
Núi sông hùng vĩ, đất anh linh vạn thủa vẫn anh linh.
Thiên địa tịch minh, đời khang thái muôn năm còn khang thái.
Lụa Hàng Vân bàn tay ai kết sợi, áng tơ mềm vấn vít đất Hà Đông.
Gạo tám thơm dâng ngan ngát hương nồng, ai là người ươm gieo miền Chợ Cháy.
Vành nón xinh nghiêng nụ cười con gái, ai là người cặm cụi giữa làng Chuông.
Bàn tay ai đơm kết sợi chỉ hồng, thu muôn sắc về khung thêu Quất Động.
Cả vũ trụ bao la thơ mộng, tranh sơn mài Duyên Thái gói vào trong.
Muôn thần linh Nam, Bắc, Tây, Đông, thợ Sơn Đồng gọi về từ gỗ đá.
Ai hữu duyên xin về miền Trạch Xá, tà áo dài bay hương sắc Việt Nam.
Đất Phú Vinh chau chuốt mỗi sợi nan, kết mây tre thành diệu huyền vĩnh cửu.
Mộc Chàng Sơn mang phụng long hoa điểu, châu tuần về tô điểm cõi linh thiêng.
Tiếng thoi ai rắc ngọc đất quê hiền, khách tha hồ nhặt gom từ Phùng Xá.
Con ốc nào mang trời mây biển cả, thổi hồn vào đó khảm Làng Chuyên.
Bàn tay nào nơi Thượng Hiệp bình yên, điểm linh nhãn cho muôn loài muông thú.
Giang sơn quyến rũ
Nhân vật tài hoa.
Muôn năm rồi theo bước ông cha, vì Thủ Đô đem thân làm cửa ngõ.
Tấm lòng son trời cao còn soi tỏ, gậy Trường Sơn in dấu đất quê hương.
Chiến tranh ư, trai tráng khắp làng thôn. Nắm tay nhau hát bài ca vệ quốc.
Bỏ lại sau mái tranh nghèo xơ xác, nguyện đem về cho Tổ Quốc vinh quang.
Hồn bay theo cánh gió đại ngàn, xá chi thân vùi sâu ba thước đất.
Tấm bia lạnh nơi nấm mồ đóng chặt, lại mở ra cả chân lý tự do.
Hòa bình ư, lại khúc hát đưa đò, lái thuyền đời vào giữa dòng đổi mới.
Đất cha ông đã bao đời đắp đổi, nay hiến dâng cho sự nghiệp sang trang.
Dù chẳng còn đâu nữa lũy tre làng, dù sáo diều không còn nơi ca hát.
Dù thôn hương chẳng còn đường gạch lát, dù chơi vơi giữa thế giới thương trường.
Chỉ một tấm lòng chan chứa yêu thương
Luôn đầy ắp dù đầy vơi cuộc sống.
Than ôi!
Núi cao trời xanh kia vẫn rộng, mà địa đồ rơi mất chữ Hà Tây.
Đông còn đây, Đoài vẫn còn đây, mà ngơ ngác giữa phố phường Hà Nội
Cô gái quê dịu hiền nơi bến đợi, đã sang sông xao xuyến một chuyến đò.
Niềm vui kia chẳng khỏa hết âu lo, phận làm dâu mấy người hay họa phúc.
Chốn quan trường bị một phen chen chúc, còn công đường hay kê ghế ngồi chơi.
Chốn dân thôn nghe ngóng khắp mọi nơi, còn ruộng đất hay hóa thành vô sản.
Đã chao đảo mấy phen hợp tán, liệu bền không khi biến ngõ thành nhà.
Hạnh phúc chăng khi thuyền mới ghé qua, phận làm hai đã bá truyền đại chúng.
Ai bảo rằng cứ nhà cao cửa rộng, hạnh phúc hơn trong một mái tranh nghèo.
Ai bảo rằng kẻ cả chẳng gieo neo, khi chứng kiến nhà giàu kia cũng khóc.
Nhưng thôi thôi!
Chân đã bước có nề chi khó nhọc, ai bảo rằng phận dưới chẳng có công.
Hồi môn kia cả mảnh đất danh hương, ai dám nói Thủ Đô không nhờ cậy.
Sông Hồng dữ có hiền hòa sông Đáy, Ba Vì thiêng nâng đỡ núi Nùng linh.
Chùa Một Cột như một đóa hoa sen, được hái về từ Phật Đài Hương Tích.
Dáng ai đi trong ngàn năm thanh lịch, tà áo nào không phải lụa Hà Đông.
Nhà ai cao ngất ngưởng giữa không trung, móng nào xây trên đất miền Hòa Lạc.
Khách viễn du không chồn chân ngơ ngác, giữa bốn bề mái ngói xô nghiêng.
Tới Thủ Đô có thủy bộ đôi bên, dắt hồn người vào bao miền hương sắc.
Đáo giang tùy khúc, luôn nhớ câu hữu xạ tự nhiên hương.
Nhất phẩm thiên lương, từng ghi dạ phúc đức tòng tại mẫu.
Đem thân về cùng Thủ Đô yêu dấu, cũng tự hào hộ đối môn đăng.
Bỏ lại sau lưng một quá khứ mênh mông, tránh sao khỏi chút niềm day dứt.
Hà Tây ơi!
Đưa người về một miền ký ức, Quốc Hương còn “bóng chiếc thoi đưa”
Hay đời thường sớm nắng chiều mưa, chỉ “sông Tích, sông Đà giăng lụa”.
Nguyễn Khắc Hiếu còn ngồi đâu đó, gan Tản Đà sông núi hóa thành tên.
Ức Trai xưa vẫn còn đó uy nghiêm, tâm vẫn sáng như sao Khuê buổi sớm.
Cánh hạc trắng bay về miền quên lãng, có ai người thổi đến một áng mây.
Chẳng thấy ai nâng chén rượu đưa cay, chỉ sương lạnh ướt đầm trên lọn cỏ
Tiễn người đi thắp hương lòng cháy đỏ, cho tình đời bát ngát một trời thương.
Cho lời ca tràn khắp nẻo văn chương, lập tượng đài trong chập chùng bể nhớ.
Dù ở đâu giữa đất trời muôn thủa
Xin Người về chứng giám Hà Tây ơi!
Thượng hưởng !
Tháng 9 Mậu Tý
(Nhân dịp nhập Hà Tây về Hà Nội)
Phạm Việt Long
Trân trọng!
V.20.04.2017 (24.03 Đinh Dậu)
Đrm