Trước tết, nhạc sĩ Nguyễn Mạnh Thường có tặng cho tôi bài hát anh mới viết, tôi liền “xung phong” hát ngay “Phố núi của tôi chưa thành tên gọi, mà đã in tâm trí bao người…”. Sau câu này, mọi người vỗ tay giữ nhịp cho tôi vững tâm hát nốt ca khúc “Phố núi”. Một cuộc hội ngộ đáng nhớ, một không khí rất tết của ngày mùng bốn.
Nhạc sĩ Doãn Quang Khải rất có duyên kể chuyện. Ông kể về cuộc đời binh nghiệp của ông và đồng đội thì nhiều, nhưng kể về chuyện sáng tác thì ít. Mà ít thật, ông vẻn vẹn chỉ có mỗi một bài trong cuộc đời. Một bài nhưng đã đọng lại trong ký ức của những thế hệ cầm súng bảo vệ Tổ Quốc. Một bài nhưng xứng đáng đứng ngang hàng với các nhạc sĩ lớn của đất nước. Chẳng khác gì tướng Hoàng Văn Thái cũng chỉ sáng tác một bài “Phất cờ Nam Tiến” vào năm 1944. Trước đó lâu hơn thì Nguyễn Nhược Pháp mất năm 20 tuổi cũng chỉ để lại bài thơ “Chùa Hương” mà nhiều người thuộc, sau này nghệ sĩ nhân dân Trung Đức cũng đã phổ nhạc thành bài hát “Em đi chùa Hương” rất phổ biến.Một dịp hiếm có, chúng tôi hỏi Doãn Quang Khải về lai lịch ca khúc “Vì nhân dân quên mình” ông chậm rãi kể: “Tôi tham gia kháng chiến chống Pháp trải qua các chiến trường: Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, Việt Bắc, Bình Trị Thiên; còn trong kháng chiến chống Mỹ là chiến trường Tây Nguyên, Bình Trị Thiên. Năm 1950, tôi được cử đi học lớp bổ túc đại đội (sau trường này được mang tên Trường lục quân Trần Quốc Tuấn).
Trước khi đưa bộ đội ra các chiến trường, nhà trường mở đợt vận động sáng tác thơ văn, âm nhạc… thể hiện quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược. Tôi say mê âm nhạc từ nhỏ nhưng chưa biết sáng tác. Một hôm, đọc báo Quân đội Nhân dân, tôi nảy ra một ý tưởng và thấy rất tâm đắc.
Trước đó, báo mang tên là Vệ Quốc Đoàn, bây giờ là tên Quân đội Nhân dân (quân đội ra đời từ nhân dân, của nhân dân, vì dân mà chiến đấu). Trên tờ báo, có khẩu hiệu “Vì nhân dân phục vụ”. Tôi thấy khẩu hiệu rất hay, nhưng thử đọc lên, thử hát lên. Tôi cứ nhẩm, thử thay đổi vài chữ theo giai điệu. Và rồi hai chữ “quên mình” được nảy ra. Hay quá, đúng quá: “Vì nhân dân quên mình, Vì nhân dân hy sinh”.
Lúc đầu tôi định thử sáng tác bài thơ theo ý này, nhưng tôi liền chuyển nó sang bài hát có lẽ hợp hơn. Làm chuẩn cho bài hát bằng chiếc Harmonica mà tôi mang theo. Đêm hôm đó, chờ đồng đội lên giường đi ngủ, tôi ra ngoài chân cột đèn ở vườn hoa của trường. Tập trung vào viết và sửa một mạch trong khoảng ba tiếng đồng hồ thì tạm hoàn chỉnh.
Sáng hôm sau, tôi tập cho anh em hát và tiếp tục sửa. “Đồ mi sol mi rê đồ, đồ mi sol si rê đô” (Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh)… nhịp 2/4, giọng Đô Trưởng, tốc độ vừa phải, theo bước đi hùng tráng. Mọi người rất vui vì lần đầu tiên được hát một bài về chủ đề quân đội, lại do chính học viên cùng lớp sáng tác mà nghe cũng rất “vào”.
Thế là tôi thay bài thơ bằng bài hát và nó xuất hiện trên tờ báo tường. Thật may mắn, sau đó không lâu, trong số khách mời của nhà trường có nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đến thăm. Đọc báo tường của nhà trường, ông thích bài hát và gặp tôi đề nghị chép lại cho một bản để ông sửa vài chỗ và dàn dựng cho đội văn nghệ của nhà trường. Ngày 1/5/1951, trong phần nghi lễ bế mạc khóa học, lần đầu tiên bài “Vì nhân dân quên mình” được vang lên theo bước đi của những cán bộ, chiến sĩ chuẩn bị ra các chiến trường.
Đến năm 1952, bài hát được đưa về Cục Quân huấn, rồi được gửi tham dự cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật toàn quốc. Ở cuộc thi này, phần âm nhạc có ba bài hát giành giải cao (không có giải nhất) là bài “Thời cơ đến” của tập thể trực chiến – và bài “Vì nhân dân quên mình” của tôi nhận giải nhì, bài hát “Bộ đội về làng” của bác Lê Yên nhận giải ba. Tôi rất biết ơn các nhạc sĩ Minh Phong, Huy Du, Nguyễn xuân Khoát đã tạo điều kiện thuận lời để tôi có được kết quả về sáng tác.
Thế là bài hát ấy được chọn làm khúc quân ca của quân đội ta và nhạc hiệu buổi phát thanh quân đội của Đài ta lúc nào tôi chẳng rõ. Nhưng đó là phần thưởng lớn nhất của đời tôi, một chiến sĩ từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Tôi thấy mình may mắn, có được một sản phẩm tinh thần, một “tài sản cuộc đời” được mọi người yêu mến và đồng cảm…”.
Ba nhạc sĩ cùng quê xã Ngọc Mỹ, hiện nay chỉ còn nhạc sĩ Đỗ Dũng (Dàn nhạc Giao hưởng Việt nam). Nhạc sĩ Nguyễn Mạnh thường mất năm 1997 thọ 74 tuổi, nhạc sĩ Doãn Quang Khải mất năm 2007 thọ 82 tuổi.
Thấm thoắt đã 62 năm của ca khúc “Vì nhân dân quên mình”, một bài hát có sức sống thật diệu kỳ. Lớp cha trước, lớp con sau và cả lớp cháu chắt vẫn còn hát mãi. Tôi muốn kết thúc bài viết này bằng những lời văn trích trong cuốn “Từ điển khoa học quân sự Việt nam” mà Bộ Quốc Phòng xuất bản năm 1996.
Trang 913 đã ghi: “Vì nhân dân quên mình”, hành khúc của Doãn Quang Khải – Học viên khóa 6 Trường Lục quân Việt nam, sáng tác tháng 5 – 1951, nói lên nguồn gốc “từ nhân dân mà ra”, mục đích “vì nhân dân mà chiến đấu” của QĐNDVN. Ca ngợi quan hệ gắn bó giữa quân đội với nhân dân, sự tin yêu của nhân dân với quân đội. Được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt nam (1952 - 1953). Một trong những bài hát truyền thống của QĐNDVN, được sử dụng làm nhạc hiệu của chương trình phát thanh quân đội và chương trình truyền hình quân đội”./.