BẢN MỤC LỤC XÃ PHÚ KHÊ, HUYỆN HOẰNG HÓA TỈNH THANH HÓA

Bài viết của Thanh Hoằng Khê và Lê Xuân Hòa
Lê Quý Đôn
Xã Phú Khê tên xưa là Phú Trừng trang, tên tục quen gọi là làng Kẻ Đừng, thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Phú Khê trước có 7 thôn: Hảo Thôn, Tự Đông, Tự Trung, Phú Trung, Trung Tây, Phú Thượng và Trịnh Thôn, nay thêm thôn Tân Đức. Phú Khê là xã lớn nhất tỉnh Thanh Hóa.
Năm Lê Cảnh Hưng 34 (1773), Bảng nhãn Lê Quý Đôn lúc này đang làm doanh điền ở Thanh Hóa, có soạn cho Phú Khê hai bản Mục lục, một bản chữ Hán và một bản chữ Nôm. “Mục lục” là bài văn nói về phong tục và việc tế tự trong làng.
Cứ tháng năm vào những ngày kỳ phúc trong tháng 2 âm lịch, các thầy tư văn con các ông Cử, Tú tới Nghề Thượng (đình làng) bình văn hai bản mục lục đó, phía trong đình chia hai dãy tràng kỷ cho các cụ Cử, cụ Tú trong làng ngồi nghe. Cụ thủ chỉ làng là bực văn thân ngồi cầm chầu điểm câu, nếu không biết dứt câu thì “cắc cắc” đọc lại, người vây xung quanh để nghe rất đông, trong đó có không ít các cô thôn nữ xinh đẹp chăm chú nghe, thỉnh thoảng có tiếng cười khúc khích, làm cho các thầy tư văn chưa vợ cảm động đỏ mặt.
Nhiều gia đình trong làng có các bản sao chép tay để ngâm nga và dạy truyền cho con cháu. Hai bản mục lục được viết trong vóc vàng diềm vóc đỏ, chỉ căng ra để đọc trong ngày lễ hội, xong rồi được cất vào trong hòm sơn son do các ông từ trông nom bảo quản.
Đây là một tài sản quý về văn hóa quê làng, văn chương dùng nhiều điển tích sâu xa, mục đích ca tụng và khuyến khích dân tình bảo tồn thuần phong mỹ tục.
Năm Canh Ngọ (1990) địa phương có nhờ tôi sao lại hai bản mục lục trên vào vải vàng diềm đỏ, dựa vào các văn bản còn lại trong nhân dân, đồng thời có phiên âm, dịch nghĩa cho dễ đọc, dễ hiểu. Nay xin giới thiệu toàn bộ để độc giả tham khảo.
I. BẢN MỤC LỤC CHỮ HÁN
Phiên âm:
Bản xã kỳ phúc nhập tịch tang cưu xướng ca
Lê triều Bảng nhãn Lê Quý Đôn cung soạn
(Dụng Thiên tự văn tập cú xướng tịch từ).
Thần tú liệt trương, ngưỡng đồ toàn ky huyền cán, Nhật Nguyệt danh trắc, hân quan luật lữ điều dương.
Duyệt dự thả khang,
Nhĩ hà nhất thể.
Cung duy thánh triều:
Ái dục lê thủ,
Thần phục nhung khương.
Thùy củng bình chương, hách hách hy huy lãng diệu,
Nhân từ ẩn trắc, dương dương không cốc truyền thanh.
Tả Quảng nội, nhi hữu Thừa ninh,
Tập quyền anh, nhi tụ phần điển.
Tọa triều vấn đạo, mỗi đàm tất thư bích kinh,
Lặc bi khắc minh, ái hữu sùng công mậu thực.
Xích bích phi bảo, đa sỉ thực ninh,
Hình đoan biểu chính, di quyết gia du.
Thu thu đông tàng, vụ tư giá sắt,
Hóa bị thảo mộc, lại cập vạn phương.
Ngã Phú Khê xã: dự tại thang mộc ấp trung dã,
Bối ấn diện lạc, khoa nhạn môn tử tái chi hùng,
Phù vị cứ kinh, hữu kê điền xích thành chi thắng.
Đại tiểu thượng hạ đẳng:
Tư phụ sự quân,
Nhiếp chức tòng chính.
Ngoại thụ phó huấn,
Nhập phụng mẫu nghi.
Văn tắc:
Điềm bút luân chỉ, cao quan bội liễn nhi trì dự đan thanh.
Võ tắc:
Bố xạ liên hoàn, khu cốc chấn anh nhi tuyên uy sa mạc.
Phú hỹ, hộ phong bát huyện
Thịnh tai, gia cấp thiên binh.
Kỳ vi sỹ dã:
Hạo hạo như bạch câu thực trường,
Ngang ngang tự minh phượng tại trúc.
Ngôn hồ an định, hằng thứ ky ư trung dung,
Dung chỉ nhược tư, mỗi kiên trì ư nhã tháo.
Kỹ vi nông dã: Lư hoa độc đặc chi thường nhiêu,
Khoáng viễn miên diễu chi tận tịch.
Thục tái Nam mẫu cần cần thuế thục cộng tân,
Tồn dĩ cam đường, miễn miễn lao khiêm cẩn sắc.
Ngôn hồ công tắc đắc năng mạc vong,
Điếu xảo nhiệm câu chi thiện mỹ.
Ngôn hồ Thương tắc tịch thậm vô cạnh,
Hải hàm hà đạm chi lịch thường.
Kỳ dư:
Nam hiệu tài lương,
Nữ mộ trinh khiết.
Quân hưởng thế lộc, sỹ phú võng cảm hủy thương,
Tranh khoa xa mã khinh phì, tịnh giai giai điệu.
Tư giả:
Tứ diên thiết tịch,
Tiếp bồi cử trường.
Tiên nhi tế tự chứng thường,
Thứ dĩ huyền ca tửu yến.
Lạc thù quý tiện,
Lễ biệt tôn ti.
Nhục tắc tự lan tư hinh,
Tửu tắc xuyên lưu bất tức.
Quả trân lý nại,
Thái trọng giới khương.
Nhân nhân thích khẩu xung trường, thăng giai nạp bệ,
Cá cá công tần nghiên tiếu, cổ sắt suy sinh.
Khởi đồ thích tạ hoan chiêu,
Tín nãi phúc duyên thiện khánh.
Phục nguyện:
Thiên địa huyền hoàng tăng kỳ hựu,
Đo ấp hoa hạ bố kỳ hòa.
Thành thích phân lợi tục chi công,
Quảng tế nhược phù khuynh chi hóa.
Lão thiếu tắc đốc sơ thành mỹ, thận chung nghi lệnh
Hiển đạt tắc cầu cổ tầm luân, tán lự tiêu giao.
Hảo tước tự mi, cô lâm cao nhị hạnh tức,
Thốn âm thị cạnh, nãi vinh nghiệp chi sở ki.
Nhất gia phu xướng phụ tùy,
Hạp cảnh thượng hòa hạ mục.
Võng đàm bỉ đoản,
Mị thị kỷ trường.
Tính tĩnh tình dật như ngọc xuất kim cương,
Đức kiến danh lập như kim sinh lệ thủy.
Phi duy:
Đồng khí liên chi,
Vĩnh tuy cát triệu.
Tương đổ thân thích cố cựu, giai tác nhân nhân,
Cố đáp thẩm tường, khể thủ tái bái.
Khả chi lễ dã, vị trợ ngữ yên.
Tư xướng.
Cảnh Hưng Lê Hiển Tông tam thập tứ niên, cát nguyệt, cốc nhật.
Bản dịch:
Bản Thúc ước mục lục xã Phú Khê do Bảng Nhãn Lê Quý Đôn soạn (Bản này dùng tập cú trong Thiên tự văn).
Tinh Tú phô bày ngắm thấy huyền vi vũ trụ;
Trời trăng tròn khuyết mừng xem quy luật hóa cơ.
Vui vẻ an khang
Xa gần một thể.
Kính nghĩ rằng: Triều nghi thánh chúa:
Yêu thương chăm sóc nhân dân,
Nhung khương thỏa tình thuần phục.
Rủ áo vui trăm họ thanh bình, huy hoàng rạng rỡ,
Lòng nhân tỏ một niềm thắm thiết, hang thẳm truyền vang.
Đây thông từ Quảng nội thư đường,
Đó đạt tới Thừa minh giảng viện.
Tụ hội anh tài,
Góp gom kinh điển.
Tài triều bàn lẽ đạo thường, nêu rõ gốc xưa Khổng Mạnh,
Bia đá khắc minh tráng lệ, ghi đầy đức cả công cao.
Ngọc kia chưa quý, có nhiều kẻ sĩ mới hay,
Dáng ấy mới cao, không ít mưu cao lưu lại.
Mùa thu, thu thập kết thành,
Mùa đông, bảo tàng hiệu quả.
Chăm lo cày cấy,
Tính liệu nông tang.
Đức hóa tràn ngập cỏ cây,
Công ơn lan ra mọi nẻo.
Xã Phú Khê ta nằm trong nôi Đế Vương sinh trưởng:
Lưng dựa ấn, mặt ngành sông, thế đất khoe cảnh trí anh hùng:
Đó hình này, kia dáng ấy, quê hương quả thanh danh thẳng tích.
Tất cả trẻ già trên dưới:
Trung hiếu hết lòng,
Đức tài thi thố.
Ra ngoài vâng lời thầy dạy,
Về nhà tuân phép mẹ khuyên.
Văn thời: Nhân luân điềm đạm, chức cả quyền cao, tiếng thơm lưu sử sách.
Võ thời: Thao lược tài ba, ngựa xe rong ruổi, hiển hách chốn sa trường.
Phú hậu thay! Dân cư bao phong tám cõi,
Phồn thịnh nhỉ! Gia đình đủ cấp ngàn quân.
Kẻ sỹ thời: Trắng xóa bạch câu, cây trúc xôn xao chim phượng.
Tấm lòng an định, luôn giữ đạo trung thường,
Chỗ đứng suy tư, vãn in điều nhã tháo.
Kẻ nông thời: Lừa la bê nghé chăm sóc béo to,
Đấy vắng hoang vu thảy đều khai phá.
Cầy cấy siêng làm, tô thuế đầy đủ lo toan,
Công đức đội ơn, khiêm tốn cần cù lao động.
Kẻ thợ thời: Học cái hay nhớ mãi,
Nghề tinh xảo trau dồi.
Nghề buôn thời: Rất mực cạnh tranh,
Đó đây đi khắp.
Biển rộng sông dài
Trải qua mặn nhạt.
Ngoài ra: Trai chuộng tài lương,
Gái ham trinh khiết.
Hưởng lộc đời, này nọ ai kẻ dám chê,
Đua sắc ngựa xe, giỏi hay mọi người đều tốt.
Này đây: bầy bàn thết tiệc,
Nâng chén chúc nhau.
Trước sau tế lễ phụng thờ,
Sau đó đàn ca tửu yến.
Vui vầy trên dưới,
Nề nếp tôn ti.
Thịt thơm phức hoa tan,
Rượu ngon tràn nước chảy.
Hoa quả đủ loài quý giá,
Cỏ cao lắm thứ trọng cao.
Ai nấy đều no dạ hân hoan, lên thềm xuống bậc,
Mọi người tỏ vui lòng hớn hở, dịp phách cung đàn
Đâu phải là cảm tạ mua vui,
Quả thật đúng phúc duyên thiện khánh.
Trời đất bao la, giúp thêm Phúc Lộc,
Xóm làng khắp chốn, bày tỏ Nhân Hòa.
Để nên công thuần phong mỹ tục, bỏ mọi phiền hà,
Mở rộng nếp, trợ khốn giúp nguy nêu cao giáo hóa.
Già trẻ chân thành đôn hậu, tốt đẹp thủy chung,
Hiển đạt tìm lẽ nhân luân, cao xa khảo cứu.
Hưởng thụ thuận đường,
Tước cao xứng đáng.
Chen vai tiếc từng tấc bóng, dựng xây âu để sự nghiệp quang vinh,
Mọi nhà chồng xướng vợ theo, mục đích giúp cho gia đình hòa thuận.
Đừng chê người kém,
Chớ cậy mình hơn.
Tính tình êm dịu như ngọc núi Kim Cương,
Danh đức như vàng sông Lệ Thủy.
Chẳng phải đó là: Đồng tâm chí khí, tốt lá liền cành.
Mãi mãi dài lâu, tốt lành bền bỉ.
Cùng nhau xem như thân thích cố cựu, tất thảy yêu thương.
Kể lể tận tường,
Cúi đầu làm lễ.
Trợ ngữ mấy câu,
Gọi là phải phép.
Cảnh Hưng, Lê Hiển Tông năm thứ 34 (Quý Tỵ 1773).
II. BẢN MỤC LỤC CHỮ NÔM(*)
Thời vừa vận mở dương tam, Rồng bay càn ngũ
Chúa Nghiêu Thuấn chín lần vòi vọi, áo rũ thong dong,
Dân Đường Ngu tám cõi hây hây, tiệc vầy ca vũ.
Áng tang cưu đã rộng phô trương,
Bảng thúc ước đem ra răn nhủ.
Đình ta nay: Tiếng nức cõi Thanh, danh từng đất Phú.
Mạch du long quanh quất một bầu, cõi mở vang vang,
Thủy dưỡng ấm phao tuôn bốn mặt, nước quanh xô xố.
Đất đình hay cấu khí anh linh,
Người mừng thấy rõ tài tuấn tú.
Văn quyền cao Thai Đẩu, kinh luân xa sánh nhị Trình(1)
Võ chức trọng việt mao, tài thao lược khá phen ngũ hổ(2)
Quan hai đường ắt đã nức danh,
Dân bốn nghiệp đều vui sở thú.
Sĩ thời: Nước một bầu Nhan(3),
Cảo nhiều níp Dũ.
Giá chẳng ngại cửa Trình đứng tuyết, xem xét tường trăm quyển nghìn chương.
Đào hằng vui sông Tứ hỏi nhân, tập tành lầu năm xe hai đầu.
Văn hoàng quyển đã lầu. Bảng thu vi sớm đỗ.
Nông thời: Cơm Hán cửa tô cháo Chu trăm mẫu.
Non Phú Xuân đủng đỉnh việc cày bừa, ưa thú thanh nhàn,
Nội Sằn đã nghêu ngao bề nông phố, vui lòng cần khổ.
Sánh Hậu Nguyên thóc nhận kho tàng(4)
So Trinh Quan của đầy thương khổ.
Công Thời: Phép biết vuông tròn, Nghề dùng chạm trổ.
Chước từng học Yển Sư vũ mộc, Kiện tâm tư ấy để nương long,
Khuôn chẳng sai Thâu Tử đốc thằng, ra tay thước khuông phù điện vũ.
Lương công danh đã nức thơm, chính cuộc ai nào dám đọ.
Thương thời: Vốn nghiệp đấu lường, nghề thông thương cổ.
Thế từng biết khi mua khi bán, đong đưa đà khắp chốn thị thành,
Vật hằng dời chốn có chốn không, lừng lẫy đã trải nơi chợ búa.
Cửa Đào Chu tiền chẳng có ngần(5)
Nhà Quách Huống vàng đà vô số.
Sang phong lưu, giàu cũng phong lưu,
Đất chế độ, người càng chế độ.
Thơ ngâm thất nguyệt, chốn chốn đều chứa để tằm tơ,
Lễ chấp tam bôi, nhà nhà đã chất nhiều là lụa.
Mừng thay vật thịnh của nhiều, vui bấy nhà no người đủ.
Vật sơn hải mâm đầy chồi chội, phô trương nhiều vẻ quý vẻ thanh.
Rượu thánh hiền tay chuốc vơi vơi, say sưa thỏa chén anh chén chú.
Lệ hằng lại giờ minh nhân, thánh thọ vâng vin phép cũ.
Trường là trường lẽ nhạc nên giữ chữ nghiêm trang,
Chốn là chốn y quan, phải ra lời răn nhủ.
Quản giáp tu xoang mới khôi hài, đào nương đặng điệu bề thơ phú
Hát cho hay, đàn cho ngọt, giáo phường ty cứ phép trò vè,
Ngồi có chốn, đứng có nơi, bàng quan khách há cho lỗ mỗ.
Phải giữ đạo trung thường, chớ có lời khinh vũ.
Như vậy lễ thờ thần mới kính, thần phúc cho hữu vĩnh thiêm tăng
Như vậy trường chúc thánh mới nghiêm, thánh tú hưởng vô cương vạn thọ.
Toàn đình vui hạc chúc rùa tâu, bàn xã hưởng dân khang vật phụ.
Nay ước.
Cảnh Hưng Hiển Tông tam thập tứ niên, cát nguyệt, cốc nhật.
Lê triều Bảng Nhãn Lê Quý Đôn soạn.
Khải Định lục niên, Cử nhân Tri huyện hưu trí Nguyễn Chi Viễn y sao.
CHXHCN năm 1990 (Canh Ngọ) cán bộ hưu trí Lê Xuân Hòa phụng sao.
CHÚ THÍCH
(*) Tôi đã cung cấp bản Mục lục chữ Nôm này cho ông Cao Hữu Lạng phiên ra chữ Quốc ngữ và đăng trong kỷ yếu Hội nghị chuyên đề về Lê Quý Đôn, do Sở VHTT Thái Bình ấn hành năm 1988. Đáng tiếc là bản phiên âm của ông Lạng không có chú thích. Nay tôi bổ sung phần này - LXH.
(1) Nhị Trình: Trình Di, Trình Hiệu (hai anh em nhà hiền triết đời Tống).
(2) Ngũ Hổ: năm dũng tướng đời Tam Quốc (Quan Công, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Mã Siêu).
(3) Nước một bầu Nhan: sách luận ngữ có câu “Nhất dan tự, nhất biểu ẩm = một lẵng cơm một gầu nước”. Nhan Hồi là một đệ tử xuất sắc của Khổng Tử, an bần lạc đạo.
(4) Nội Sằn dã: Y Doãn là bậc hiền tướng. Khi hàn vi ông cày ruộng ở Hữu Sằn. Vua Thang biết tiếng cho đem lễ hậu đến đón mời. Ông đã giúp cho vua Thang làm nên nghiệp vương nhà Thương.
(5) Phạm Lãi sau khi giúp Việt Câu Tiễn trả thù được Ngô Phù Sai, khôi phục đất nước, đã từ bỏ quan chức lánh đến đất Đào, đổi tên là Đào Chu Công, làm nghề kinh doanh, nổi tiếng giàu có trong cả nước.
1

TB