SỰ TÍCH THÁNH TẢN VIÊN DIỄN CA

Đình Tây Đằng; ảnh: Phạm Duy Trưởng

Sự tích thánh Tản Viên là một truyền thuyết dân gian của ta có tự lâu đời. Đặc biệt là truyền thuyết này được cố định trên văn bản cũng rất sớm. Ngay từ đời Trần, Lý Tế Xuyên đã đưa vào trong sáchViệt điện u linh tập. Trần Thế Pháp và Kiều Phú cũng chép trongLĩnh Nam chích quái. Đến Ngô Sĩ Liên lại ghi vào Đại Việt sử ký toàn thư (phần Ngoại kỷ). Từ đó về sau thường thấy sao chép truyền thuyết này. Như Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú),Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam quốc sử diễn ca… và các sách truyện ký, dã sử, giai thoại. Trong dân gian Việt Nam, thánh Tản Viên được coi là một trong bốn vị thánh bất tử(1), của nước Nam. Ở nhiều địa phương đã tôn thờ thánh Tản làm Thành hoàng làng và lập miếu thờ phụng rất uy nghi. Chỉ tính riêng mấy tỉnh phía Bắc như: Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Tây, Thanh Hóa,… đã có 292 nơi thờ. Mỗi làng đều có ngọc phả riêng, ngoài những điểm chung về hành trạng, ở mỗi bản ngọc phả còn có đoạn giải thích rõ lý do thờ cúng và nghi lễ cúng tế. Trong số các sách và số ngọc phả kể trên, tuyệt đại đa số được biên soạn bằng Hán văn. Thỉnh thoảng mới tìm thấy một bản ngọc phả chép câu đối Nôm hoặc bài thơ Nôm. Trong một chuyến đi thực tế về xã Vật Lại, huyện Ba Vì (nay thuộc Hà Nội), chúng tôi phát hiện ra một bản ngọc phả thánh Tản Viên chép bằng chữ Nôm, diễn ca theo lối thơ lục bát (từ đây trở xuống gọi làBản diễn ca). Bản diễn ca dày 16 trang, gồm 466 câu lục bát.
Đây là một Bản diễn ca thần tích khá cổ, chưa rõ tác giả là ai? Thể thơ lục bát dùng trong văn bản khá cổ kính, rất gần với thể thơ trong Thiên nam ngữ lục, Thiên nam minh giám,… Trong văn bản không chỉ dùng nhiều từ Hán Việt, mà còn dùng nhiều từ cổ, như: Thừa lưa, chỉn, hối, ở ca, v.v… Từ “Song viết” cũng thấy xuất hiện một lần ở câu:
Sơn hào song viết thừa lưa, 
Thói quen nên kẻ tiều phu trí mầu. 
(Câu 31, 32)

Đặc biệt chữ “viết” có dùng dấu nháy.
Về nội dung truyền thuyết, cơ bản giống với các bản ngọc phả thánh Tản Viên khác. Nhưng cũng có một vài chi tiết hơi khác. Chẳng hạn Bản diễn ca cho rằng Thủy Tinh đối đầu với Sơn Tinh, cũng vẫn là Hoàng tử con vua Thủy Tề được Sơn Tinh cứu nạn ngày trước. Sau này khi đánh nhau, Sơn Tinh giải thích:
Chàng đà ra dạ tương tranh,
Cho nên lỗi đạo đệ huynh chăng hòa.
 
(Câu 393 - 394)

Hoặc đoạn chép việc các loài thủy tộc bắt nhầm phải mẹ đức thánh Chèm (chỉ Lý Ông Trọng), nên bị đức thánh Chèm trừng trị:
Hội đồng cá rắn biên giang
Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay.
Trả ơn thân mẫu khi nay
Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng.
 
(Câu 431 - 434)

Như trên đã nhắc tới, Bản diễn ca còn dùng nhiều từ Hán Việt và từ cổ, hơn nữa có một số đoạn câu thơ chưa được chải chuốt. Nhưng nhìn chung, có thể ghi nhận đây là một bản diễn ca lịch sử có giá trị. Tuy chưa xác định rõ niên đại, song qua phân tích trên, có thể đoán định Bản diễn ca được biên soạn vào cuối đời Lê. Cùng với Thiên nam ngữ lục, Thiên Nam minh giám,…Bản diễn ca cũng cung cấp thêm một số tư liệu quý. Do vậy nó xứng đáng được đông đảo bạn đọc và những ai quan tâm đến lịch sử nước nhà biết đến.
Toàn văn Bản diễn ca như sau:
TẢN VIÊN SƠN TRUYỆN CỔ TÍCH


Trước bày Đại Việt Hùng Vương
Dân an đệm chiếu bốn phương thuận hòa.
Đâu đâu hát thái bình ca
Phong đăng bách cốc(2) nhà nhà đủ no.
Có người là con học trò
Tên là Nguyễn Tuấn thế lo làm tày.
Phòng văn án tuyết(3) đêm ngày
Gạo châu củi quế(4) thiếu rày lấy đâu.
Đọa tài khắp một tay thâu
Sớm lo chẳng đủ lấy đâu ngày dùng.
Tuổi vừa được chốn xuân nồng
Thất gia chưa có dụng phòng chốn nao.
Lên chơi rừng quế nguồn đào
Giang sơn chốn chốn thấp cao mọi ngàn.
Chim kêu vượn hót làm đàn
Có nơi là Tản Viên Sơn hiệu lành.
Bốn bề non nước cực thiêng
Dẫu có thụy khí anh linh lạ thường
Cảnh thanh kì lạ khác thường
Non nhân nước trí bốn phương hữu tình.
Nhuộm tươi chân ngắt mầu xanh
Dường bằng một cảnh hồ thanh ngất trời.
Hình hô một cảnh lâu đài
Đỉnh cao đột ngột chống trời một phương.
Quần sơn chầu lại nên hàng
Thế lo đất phức ắt đường nơi đây.
Cảnh thanh đắc ý mừng thay
Lập làm lều tiện(5) tháng ngày náu chơi.
Lân la chiếu đất màn trời
Làng Nhan cửa Khổng(6) chẳng đời chí xưa.
Sơn hào song viết(7) thừa lưa(8)
Thói quen nên kẻ tiều phu trí mầu(9)
Ngày ngày bẻ được củi mau
Xăm xăm làng hạnh gạo châu đổi dời.
Đèn trăng quạt gió vẫn chơi
Hôm mai no đủ cầu gì thế gian.
Một ngày lên đỉnh Cao sơn
Nhìn xem sắc mộc thiên ban lạ dường.
Cây cao chót vót sơn trường
Đàn lên tán lục rợp trương lạnh lùng.
Tần Hoàng(10) xưa có sắc phong
Ơn vua chức trọng phù tùng uy nghi.
Hương xuân ngát nức tư bề
Nguyễn Lang thấy lạ đòi khi lo lường.
Chữ rằng: trừ mộc khử ương(11)
Tay cầm thiết phủ(12) chém thương tồi tàn.
Ngả cây tiếng dậy lâm san
Chuyển lên kinh khủng thế gian hãi hùng.
Nguyễn Lang chẳng chuyển hình dung
Để khô làm củi dành phòng bán mai.
Ai hay là sự bởi trời
Bỗng đâu xui khiến có nơi hộ trì.
Thấy sao Thái bạch tử vi
Thần thông hiển hiện một khi nên người.
Một ông lão tử tám mươi
Tây cầm tích tượng bởi trời sẩy sa(13).
Thấy cây tươi tốt dầm dà
Nguyễn Lang hoài chém tồi pha(14) thương này.
Xăm xăm tích trượng cầm tay
Gõ vào cây ấy một giây lạ dường.
Tự nhiên cây ngọn hồi dương
Dựng nên cây tốt tán trương xanh rờn.
Ngày sau Nguyễn Tuấn lại lên,
Thấy cây vặc vặc vẹn toàn như xưa.
Gẫm rằng sự lạ qua ưa(15)
Cây này đã ngả hôm qua tan tành.
Một giờ ngọn lại tươi xanh
Thấy âu là có thần linh hộ trì.
Cây sao quái gở nhiều bề
Sự thì đã lạ thấy thì chẳng ngoa.
Tay cầm phủ việt lại pha
Chém cây ấy xuống ngã ra tan tành.
Một bên đứng nép hòa rình
Thấy ông Thái bạch kim tinh đến gần.
Liền hối(16) tích trượng chân nhân
Gõ vào cây ấy chuyển vần lạ bao.
Dựng nên đột ngột xanh cao
Cây nên vặc vặc tơ hào chẳng ngoa.
Tán xanh cây tốt dầm dà
Thấy ông Thái bạch tuổi già lu khu.
Thấy trời có ý tựa cho
Nguyễn Lang thất ý liền lo lời này.
Ắt là Trời, Phật tới đây,
Đè ông liền cướp được rày mừng sao.
Phật trên một tiếng cả cao:
“Kìa mày lấy gậy thì tao càng mừng.
Đây hòa cứu tử độ sinh
Tự nhiên phúc đức bởi mình hòa ra.
Cứu dân hộ quốc gần xa
Công cao đệ nhất người ta trọng dùng”.
Nói thôi dạy phép thần thông
Bụt liền thoắt biến về trong bảo đài.
Ác vàng xế bóng non đoài
Nguyễn Lang trở lại Sơn trai chốn nhà.
Ngày sau gánh củi bên hà(17)
Mục đồng kính nhưỡng(18) âu ca chơi bời.
Vo ve tiếng địch(19) vừa vui
Đã không thì nói vui chơi đêm ngày.
Nam thanh nữ tú làm bày.
Khi ca khi nói khi cười khi không.
Bảo nhau đã nức dậy đường
Hò reo tập trận Đinh Hoàng cờ lau.
Ngựa bò cờ nón voi trâu
Kèn loa tiếng trống đâu đâu dậy đường
Thuở ấy Thủy Tề Long vương
Có một nam tử là chàng Tiểu Long.
Phù sinh thơ dại trẻ trung
Rắn vừa đội lốt chơi rông lạc đường.
Trường giang tới bãi Tiêu Tương,
Trẻ thơ bài ấy lòng càng muốn coi.
Miên man lễn bãi đầu doi(20)
Rắn liền thấy trẻ vui chơi lại gần.
Thế gian ai biết thủy quân
Làm chi ai biết tiên nhân Thủy tề.
Tay cầm dùi mít liền bè
Đánh Tiểu Long chết tức thì bảo nhau:
“Đánh rắn đánh cho dập đầu
Kẻo hòa chàng ấy ngày sau trả thù.”
Để lên bãi cát nằm co
Tiểu Long hồn phách bơ vơ rụng rời.
Tình cờ đem để có nơi
Nguyễn Lang đến đấy ngược xuôi bao giờ.
Đông tây vắng vẻ bằng tờ
Bãi non tới xuống trời vừa tà dương.
Rắn liền nằm bãi Tiêu Tương
Như rồng uốn khúc, tới nhường lạ thay.
Nguyễn Lang tích trượng cầm tay
Gẫm rằng ta thử gậy này thấy nao.
Gậy thiên thần mới cho tao,
Thiêng liêng nhường ấy nhẽ nào được hay.
Ngày xưa người chữa được cây
Bây giờ ta chữa rắn này thế nao.
Bèn cầm tích trượng gõ vào
Thần thông sao khéo lạ nào tự nhiên.
Rắn lại trương cất đầu lên
Hoàn hồn uốn khúc lại yên vẹn toàn.
Cúi đầu quỳ lạy tạ ơn
Tiểu Long trở xuống thủy tiên tức thì.
Thần thông phút đến Thủy tề
Vua cha coi thấy lòng thì mừng thay:
“Con sao ba bốn hôm nay
Tìm hoài chẳng thấy là hay nơi nào?”
Tiểu Long lén lén tâu vào:
“Đi chơi lạc đến ngòi Tào(21) thương thay.
Lân la đến chốn Sơn Tây(22)
Bãi Tương ngàn Sở chốn nay hữu tình.
Một nơi là một khoe thanh
Giang sơn thành thị dường tranh mỹ mùi.
Cảnh kỳ dư ngất xuân đài
Chẳng ngờ là chốn ấy người phàm gian.
Chơi xuân đồng mục(23) có đàn,
Thấy vui tôi muốn lên xem tới gần.
Lốt thiêng trái dáng chân nhân
Nó ngờ là rắn hại dân bấy chầy.
Trẻ trung thơ dại chẳng hay
Nó liền đánh chết bỏ thây bên ngàn.
Có người là Tản Viên Sơn
Tên là Nguyễn Tuấn phép tiên ai tầy.
Thần thông tích trượng cầm tay
Hoàn sinh của Bụt ấy nay bao giờ.
Tài hiền tướng mạnh qua ưa
Chữa tôi lại sống tỉnh xưa lại hoàn.
Mới hay phúc bởi hoàng thiên
Rày tôi về tới Thủy tiên chốn nhà.
Lại xem thấy mặt mẹ cha”.
Long Vương thấy nói xót xa trong lòng.
Mừng con mở tiệc đền rồng
Thỉnh mời Nguyễn Tuấn đến cùng tạ ơn.
Sai tam bộ sứ Thủy tiên,
Tiểu Long hiển hiện cùng lên tới nhà.
Tiểu Long quỳ lạy trình qua:
“Tôi là thủy tộc kênh hà Long Vương.
Mục đồng ngày ấy làm thương(24)
Ơn nhờ chữa được nghĩa càng cảm thay.
Cha tôi thỉnh xuống một giây
Đền rồng bẩm tạ ơn nay cho chàng.
Dầu cha cho bạc cho vàng
Sau là tiền vải vóc càng nhiều thay.
Thái hoa thung thúc(25) đã đầy
Của ấy chẳng tày sách ước quốc gia.
Ước chi được nấy chẳng ngoa
Thiên vàn xin đức vua cha cho về”.
Dặn dò mọi nỗi vân vi
Đem nhau vừa xuống Thủy tề Long cung.
Vừa khi vua ngự đền rồng
Thành vàng báu ngọc lạ lùng nhiều sao.
Khắp đầy đài các cung cao.
Phủ lầu tượng vị đền cao ngàn tầng.
Long Vương cao ấy phán rằng:
“Người tiên thói ở ra lòng thế bay”
Tiểu Long được đội ơn này
Chữa tôi ngày trước, khi nay vừa hồi.
Nhân duyên ngõ nhẽ đôi người
Kết làm huynh đệ chưa đời chí xưa.
Vàng thì muôn nén lấy đi,
Bạc thì muôn gánh thái hoa vô vàn.
Lưu li hổ phách hô san
Trân châu mã nã đầy bàn mười mâm.
Báu yêu thức tốt dư trăm
Khiến người đưa đến sơn lâm cho chàng.
Nguyễn Lang vái tạ từ nhường:
“Của vua châu báu vàn muôn kênh hà.
Song le tôi khí chật nhà
Tôi xin sách ước quốc gia bấy chầy”.
Long Vương lòng chẳng thiết(26) thay
Nửa cho, nửa lại tiếc rày chẳng cho.
Tiểu Long đến trước tâu vua:
“Tôi xin sách ấy vua cho ơn người”.
Long Vương nghe nói ngùi ngùi
Tố thư một cuốn đưa nay cho chàng.
Nguyễn Lang khấp khởi lòng vàng
Tức thì vái tạ Thánh hoàng trở ra.
Tiểu Long vừa bước đưa qua
Trượng phu bốn bể một nhà anh ba
Dặn dò sau trước một bề
Đầu đào báo lý chưa hề làm chi.
Giang sơn đối mặt bái từ
Người lên non Tản người về Thủy cung.
Nguyễn Lang được phép thần thông,
Ước chi được nấy trong lòng mừng thay.
Ước nên đài các đông tây
Ước nên châu báu chưa đầy chân chan.
Ước nên thiên hạ bình an
Ước nên bốn bể phượng loan một nhà.
Ước nên phong vũ thuận hòa
Được mùa bách cốc nhà nhà đủ no.
Ước nên thọ khảo muôn thu
Phúc nhà con cháu phúc nhà tiên ông.
Ước chi được nấy lạ lùng
Như trong ước muốn, như lòng ước xưa.
Thuở ấy Thủy tề giang hà
Nhường con lên trị quốc gia bấy chầy.
Sơn quân thấy vậy mừng thay
Bạn xưa chẳng phụ thường hay đi về.
Thuở ấy Hùng vương cung phi
Sinh được con gái tên là Mỵ Nương.
Tuổi vừa mười bốn phi phương
Tinh thần ngọc đúc Thọ Dương(27) ai tày.
Má hồng đa ngọc hây hây.
Ngờ thần tiên nữ xuống rày đài dương.
Nương long chúm chím tuyết sương
Tiết mai dường thuở thường thường mới đây.
Tốt thay điệu điệu lưng ong,
Mình thì chật bức quần hồng vừa vui.
Thong dong ngọc thốt miệng cười
Chân đi thoắt thoắt khoan thai dịu dàng.
Nết na tư chất khác thường
Hình dung yểu điệu nhan hồng thuyền quyên.
Càng nhìn càng một hữu duyên,
Hà sơn khả ví hương tiên khôn bằng.
Da ngà tóc phượng khác hằng
Thế gian ai thấy là chăng phải lòng.
Một nơi là một lạnh lùng
Ngọc lành cao giá đợi cùng chốn sang.
Tiếng đồn dậy khắp lân bang
Đã nên một gái mọi dường con cha.
Đầu cài trâm hốt ngọc hoa
Của bằng các bạn hằng nga tốt lành.
Tiếng đồn mọi quận mọi thành.
Thục vương muốn kết ả anh một nhà.
Song le chẳng gả chồng xa
Hùng Vương làm hội quốc gia bấy chầy.
Khắp hòa thiên hạ đông tây
Mặc cho con kén ai nay có tài.
Dậy đường đồn nức mọi nơi
Trông xem mừng gặp duyên trời dẩy dun.
Ai ai cũng đến cửa son
Mỵ Nương hợp ngọc lòng còn hồ nghi.
Chưa lòng kết tóc phu thê
Thế gian cùng đến đều thì ước ao.
Long Vương lên đỉnh án cao
Tìm chàng họ Tuấn kết giao bấy chầy.
Đôi người khấp khởi mừng thay
Đền cao gác rộng hây hầy ỷ la(28)
Tiệc bày mỹ vị xướng ca
Nghênh hôn mừng rỡ thật là vui thay.
Chả lân thịt phượng khắp bày
Mâm đầy ngọc thực, chén đầy quỳnh tương.
Vang lừng một đám phong quan
Sơn Tinh cùng chúa Long Vương khuyên mời.
Hùng Vương làm hội tháng trời
Tiếng đồn vang nức đòi nơi xa gần.
Long Vương cùng chúa Sơn quân
Đôi vua nghe tiếng mười phân ra mừng.
Vội vàng mở tiệc tưng bừng
Đôi vua về núi tếch rừng một khi.
Trường An(29) thẳng tới làm kỳ
Thấy Hùng Vương hội nhiều bề mừng thay.
Xăm xăm tới trước tâu bày:
“Đôi tôi kén rể phen này xứng chăng ?
Chúng tôi tú pháp(30) tài năng
Ngõ(31) đây Nguyệt Lão hợp trăng tình cờ”.
Long Vương phun nước liền mưa
Sơn quân đứng núi một giờ mọc lên.
Thuở ấy thủy tộc thủy tiên
Trong lòng lấy hột xảy liên từ đình.
Đặt bày muôn khóm thụy tinh
Một dây liền mọc lá cành nở ra.
Nên cây tươi tố dầm dà
Trăm hoa đua nở dà dà cành xanh.
Thuở ấy họ Tuấn Sơn quân
Tây cầm phủ việt lấy cành chém cây.
Đòi nơi lá rụng hoa rơi,
Lại lấy tích trượng cầm tay vội vàng.
Gõ vào ngay cây cam đường
Tự nhiên cây lại hồi dương tức thì.
Quả hoa lại kết liền chi
Cây nên vặc vặc tư bề hồi dương.
Chồi là lá ngọc cành vàng
Hùng Vương xem thấy lòng càng mừng thay.
Đôi người thi phú đều hay
Hung Vương mới nói lời này phán ra:
“Cây cao hòa có một hoa
Duyên ai nấy gặp biết hòa làm sao
Đôi người dạ cũng đều yêu
Tài khôn nhường ấy biết nào phụ ai.
Song le duyên phận mặc trời
Lòng lo lưỡng lự mở lời ấy khôn.
Nhân vì nhà có một con.
Bây giờ dụng sự kết hôn gả chồng.
Mặc ai sính lễ việc dùng
Đặt bày trước mặt sân rồng đến sơ(32)
Ấy là phận đẹp duyên ưa
Nhân duyên mặc lão tình cờ mặc ai.
Đôi vua bái tạ trước ngai
Về nhà sắm sửa sính tài kíp thay.
Sơn quân sách ước cầm tay
Ước nên vàng bạc của đầy dư muôn.
Trâu bò gà lợn đến tuôn
Sẵn sàng bày đặt trước đền hư không.
Mời khuyên yến ẩm đền rồng
Mỵ Nương trước lấy về cùng Tản Viên.
Long Vương sau đến lỡ tin
Thẹn thò xấu mặt lòng càng hận thay.
Bèn liền chốc ý phân tây
Ơn xưa chẳng đoái lại hay oán thù.
Thời vừa tháng bảy đầu thu
Kim phong hải khẩu gió mưa bay dời.
Tiết sang vừa chịu lệnh trời
Cầm quyền Bạch đế đòi nơi lạ dường.
Thuở ấy Thủy Tề Long Vương
Hận vì chẳng được Mỵ Nương kết nghì.
Vãng lai tin tuyệt đi về
Giao lân nào có ỏ ê tới lòng.
Nẻo hòa dạ khác thì vong(33)
Long Vương sắm sửa thủy cung binh quyền.
Hận rằng lên đánh Tản Viên
Chư quân eo óc nước dâng lên ngàn.
Kình nghê sấu vực giương vây
Rắn rồng uốn khúc rồng bay một đoàn.
Nước dâng lai láng đầy ngàn
Mưa tuôn bão giật sấm ran đùng đùng.
Nhị hà dòng nước mênh mông
Kình nghê thổi gió rắn rồng phun mưa.
Đua nhau thừa tướng trường xà
Miết lân ngư trượng kể dư muôn vàn.
Giương vây vùng vẫy tiến ngàn
Uy ra điện chớp sấm ran lôi đình.
Tam đầu cửu vĩ tiên binh(34)
Đến Từ Liêm huyện sự tình nghỉ ngơi.
Thấy bà lão mẫu tốt tươi
Một mình xuống tắm thửa nơi giang bà.
Long Vương thử triệu niên nga(35)
Không dưng bắt lấy lão bà thảm thương.
Chẳng ngờ phải mẹ vua Chèm(36)
Ra đi đến Bắc trấn biên hòa về.
Mình cao nghìn trường chỉn ghê
Theo xuống hòa tắm thông tri đâu là.
Bởi về thấy vắng mẹ già
Chăng ngờ thủy tộc bắt hòa chăng thương.
Ông Chèm báo oán Long Vương
Lưới giăng ngăn khúc bến giang đón về.
Thuở ấy Long tộc Thủy tề
Đem quân lên đánh Ba Vì Tản Viên.
Sơn quân cùng chúa Thủy tiên
Đôi vua ra trận ấy liền bảo nhau:
“Ấy vua Thủy tộc đi đâu
Mặt trăng mặt vực thấy nhau chẳng chào.
Hay là chàng có lòng nào
Đem quân rồng rắn lên ngàn làm chi?”
Thưa rằng: “Bởi vua Ba Vì
Lừa nhau làm sự vô nghì trước sau.
Hơn lòng lấy cướp vợ nhau
Chăng vì bầu bạn dạ hầu bất nhân.
Thấy chàng làm chúa Sơn quân
Ra lòng khinh bạc mười phần sai ngoa.
Bạn xưa sao chẳng thực thà
Cho nên thủy tộc kênh hà cất binh.
Nhọc lòng văn vũ triều đình
Cho nên lỗi đạo đệ huynh bởi người”.
Sơn quân hòa nói hòa cười:
“Đôi ta cùng đội ơn trời giáng sinh.
Chàng đã ra dạ tương tranh
Cho nên lỗi đạo đệ huynh chăng hòa”.
Ắt là sơn thủy nên xa
Sơn quân cũng chúa kênh hà tranh khi.
Sơn quân những tướng hùng uy
Khỉ hươu hùng hổ làm vì tiến ra.
Chư quân đối địch giang hà
Hươu Tần Khỉ Sở rày đà nên công.
Long Vương đội lấy lốt rồng
Phun mưa thổi gió đùng đùng bốn phương.
Phong vân một trận lạ dường
Kình nghê sấu vực quân càng nhiều thay.
Cá mừng gặp hội rồng mây
Nhẩy qua cửa Vũ một giây nên rồng.
Đua nhau những trí anh hùng
Điểu phượng theo rồng, phù chú lấy sang.
Đôi bên giao chiến vội vàng
Non tiên hổ báo theo chàng long ngư.
Đanh nhau vừa được ba giờ
Long Vương hóa phép giục ba quân vào.
Biến làm đội rác râu tào
Nổi lên mặt nước tiến vào đột xung.
Sơn quân gẫm được sự lòng
Trúc thưa trúc mật tây đông tứ bề.
Đôi bên đều cũng uy nghi
Lạc hay chế ngự ai thì thua ai.
Bảo nhau chém rác quân tào
Đều thì có máu, đều thì lạ thay.
Trúc tên bắn phải mưa bay
Kình nghê cá rắn thác đầy làm nơi.
Vốn xưa đã được sách trời
Thủy Tinh thua xuống thửa nơi giang hà.
Ba quân hồi khải hoàn gia,
Sơn trường lấy gỗ trở ra tiến về.
Thủy quân nẻo cũ quen về
Ngày sau tức thì đến xã Từ Liêm.
Tiên binh xung lưới ông Chèm
Ai hòa chẳng được càng thêm lo lường.
Hội đồng cá rắn biên giang
Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay.
Trả ơn thân mẫu khi nay
Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng.
Bủa vây mọi khúc biên giang
Rắn rồng bắt lấy bật ngang vào đồi.
Long Vương mất vía rụng rời
Đường về chẳng được mắc người khôn qua.
Long Vương hải tàng(37) còn xa,
Mở rèm cửa Hát(38) luồn qua chu kiều,
Năm năm thường một neo chèo
Đem quên lên đánh Ba Vì Tản Viên.
Sơn quân thấy bạn chăng hiền
Lại lấy sách ước ra nguyền một giây.
Chước chi tao ước được mày
Chúa Tiên tinh ước một giây lạ dường.
Long Vương thủy tộc ba đầu
Ông Đàm ông Cột ông Lương ông Chài.
Song le mạnh chẳng qua trời
Sách thiêng chư tưởng rụng rời hồn kinh.
Tự nhiên lên núi nộp mình
Thần thông biến hóa hiện hình càng ghê.
Đều thì cá rắn chỉn ghê
Mình dài trăm thước uy nghi lạ lùng.
Rắn thiêng hóa phép nên rồng
Sơn Tinh thương tích trong lòng dây dây(39).
Nhớ xưa hai nghĩa chẳng rời
Tùy hàng bầu bạn mong hoài lại tha.
Hiện nên tướng cả lòng xà
Cúc cung bách bái nằm ca(40) tiền đường.
Thuở ấy Sơn quân phán rằng
Tiếc thay những tướng tài hiền Long quân
Đều hay hộ quốc cứu dân
Huy hòa bốn bể xa gần được ơn.
Lại đi đánh trả Thủy tiên 
Sơn quân có đức hoàng thiên hộ trì.

CHÚ THÍCH
(1) Tứ bất tử: Đức Thánh Tản, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng, Đức Thánh mẫu Liễu Hạnh.
(2) Phong đăng bách cốc: Được mùa, nhiều thóc lúa.
(3) Án tuyết: Nơi học hành.
(4) Gạo châu củi quế: Gạo như ngọc, củi như quế.
(5) Lều tiện: Con lề nhỏ.
(6) Nhan: Nhan Uyên; Khổng: Khổng Khâu. Hai nhân vật tiêu biểu cho Nho học.
(7) Song viết: Chưa rõ nghĩa?
(8) Thừa lưa: No đủ, sung túc.
(9) Trí mầu: Khôn ngoan, thông tuệ.
(10) Tần Hoàng: Vua nhà Tần, tương truyền Tần Thủy Hoàng ban sắc phong cho cây tùng chức Đại phu.
(11) Trừ mộc khử ương: dẹp trừ ma mộc, loại bỏ tai ương.
(12) Thiết phủ: Rìu sắt.
(13) Sảy sa: Chợt sa xuống.
(14) Pha: Phá tan.
(15) Qua ưa: Rất tốt đẹp.
(16) Hối: gọi.
(17) Bên hà: bên sông.
(18) Kích nhưỡng: Một trờ chơi dân gian thời cổ, thường tổ chức trong các ngày hội. Theo truyền thuyết, đời Nghiêu Thuấn thiên hạ thái bình, dân chúng khắp nới tổ chức lễ hội, có cả trò chơi kích nhưỡng.
(19) Tiếng địch: Tiếng sáo thổi.
(20) Đầu doi: Đầu bãi sông bồi.
(21) Ngòi Tào: Tức Tào Khê, nơi trụ trì của Lục tổ Huệ Năng, của Thiền Tông. Về sau dùng để chỉ khung cảnh Tiên Phật kỳ diệu.
(22) Sơn Tây: Tức tỉnh Sơn Tây, nơi có núi Tản.
(23) Đồng mục: Trẻ chăn trâu.
(24) Làm thương: Làm cho tổn thương.
(25) Thái hoa thung thúc: Từng tấm lụa hoa.
(26) Thiết: Tha thiết, đằm thắm.
(27) Thọ Dương: Tên một vị Công chúa đời Tống của Trung Quốc, có nhan sắc tuyệt mỹ.
(28) Ỷ la: Vóc lụa.
(29) Trường An: Chỉ Kinh đô của đất nước.
(30) Tú pháp: Pháp thuật kỳ lạ.
(31) Ngõ: Dường như, có lẽ là.
(32) Đến sơ: Đến sớm.
(33) Vong: Quên.
(34) Tiên binh: Quân đi trước.
(35) Niên nga: Chưa rõ nghĩa?
(36) Vua Chèm: Tức Lý Ông Trọng.
(37) Hải tàng: Cung điện ở Biển.
(38) Cửa Hát: Cửa sông Hát
(39) Dây dây: Rõ ràng.
(40) Ca: Ở, tại.

Biên tập: Phạm Duy Trưởng