Vâng, câu trả lời giản dị nhất đời là thế này:
Một bài thơ hay là một bài thơ ít nhất được một người đọc trên đời thích nó theo cách thích một bài thơ. Thế thôi. Và rõ ràng, một bài thơ càng tự chứng tỏ được mình là hay bao nhiêu khi càng có nhiều người thích nó bấy nhiêu - nhưng đừng quên người thích nó là ai, khả năng cảm nhận thơ đến đâu, nên chính sự thích thú này lại phân hóa người đọc ra nhiều đẳng cấp.
Một ví von giản dị nữa: Tiếp nhận một bài thơ hay cũng tương tự như khi ta đối diện với một cô gái đẹp, hay nếm một món ăn ngon. Cả cái sự "đẹp" và "ngon" này vừa có tiêu chí chung, vừa có tiêu chí riêng tức cái "gu" hoặc "khẩu vị", tức là những lý do bao la như nhân loại vậy.
Vì vậy, chúng ta đành khuôn nó vào những tiêu chí chung, bởi trong hệ thống tiêu chí chung này cũng đã là một biển cả những vấn đề nói mệt nghỉ rồi, vì chúng luôn bao gồm một mớ mâu thuẫn dính vào nhau như vạn sự trên đời đều có mặt phải, mặt trái.
Theo tôi, tạm đi vào vài tiêu chí phổ biến nhất trong các quan niệm xưa nay về thơ nói chung và thơ hay là thế này:
Trước tiên, thơ chỉ thuộc phạm trù cảm xúc hay gồm cả tư tưởng?
Nhà thơ nổi tiếng bậc nhất của thế kỷ 20 là Xuân Diệu từng tuyên bố: "Quy luật của thơ là quy luật của cảm xúc, như đã là nước thì có thể trong, có thể đục, có thể đầy, có thể vơi, nhưng không thể KHÔ". Còn nhớ có lần được ngồi cạnh ông và nghe ông nhắc lại tuyên bố này cho nghe, tôi đã hỏi… vặn ông: "Vậy tư tưởng thì sao, thưa anh?". Ông đáp lạnh tanh: "Quy luật là thời gian sẽ thanh toán nó trước tiên!".
Thế là rõ: Với các nhà thơ lập danh từ thời thơ mới và vô số các nhà thơ Việt Nam và phương Đông nói chung, thơ là tiếng nói của cảm xúc và chỉ có cảm xúc mà thôi.
Vậy, trong trường thơ này, một bài thơ hay dĩ nhiên phải là bài thơ tràn đầy cảm xúc, dồn nén, truyền cảm, ám ảnh… Chúng ta không thể phản bác được các thi sĩ duy cảm này, bởi vì họ nói rất đúng. Một bài thơ mà chỉ toàn lý sự chay, bằng ngôn ngữ khái niệm… thì không có chỗ ở đây. Và bao năm trời, ta từng run rẩy với những kiệt tác "thơ duy cảm" của các nhà thời thơ mới và nhiều nhà thơ sau này nữa… Những bài thơ như "Tiếng thu", "Tràng giang", "Ngậm ngùi", "Đây mùa thu tới", "Tương tư chiều…", "Mùa xuân chín", "Chân quê"… mãi còn khiến ta xúc động, buồn vui theo chúng… Và với khả năng vượt thời gian như vậy - chúng đích thị là những bài thơ hay.
Và cái hay đó thuộc về nguồn mạch quá dào dạt của cảm xúc. Để dẫn chứng cho loại thơ hay do tràn đầy cảm xúc này, có thể nói cả ngày không hết: "Em không nghe rừng thu/Lá thu kêu xào xạc/Con nai vàng ngơ ngác/Đạp trên lá vàng khô". Một bức tranh chấm phá với một vài âm thanh mơ hồ… là tất cả chất liệu của kiệt tác số 1 của thơ thế kỷ XX của chúng ta! "Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa/Lòng quên dợn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".
Và: "Cây dài bóng xế ngẩn ngơ/Hồn em đã chín mấy mùa thương đau/Tay anh em hãy tựa đầu/Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi". Đấy là nỗi buồn thiên cổ của nhà thơ sầu muộn nhất thế kỷ XX Huy Cận. Còn Xuân Diệu ư, chỉ một câu hỏi tuyệt đối vu vơ và duy cảm hoàn toàn đủ vẽ chân dung mình: "Hôm nay trời nhẹ lên cao/Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn"… Không một chút lý do, chẳng phân tích, giảng giải…gì hết. Buồn vui đều vu vơ, khóc cười đều vô cớ… thì còn biết cắt nghĩa ra sao???
Chúng ta ngả mũ trước những câu thơ hay, những bài thơ hay duy cảm và chắc chắn không bao giờ phản đối tín điều này của các nhà thơ lớn ấy, vì nó là một phần vô cùng quan trọng làm nên chân lý về thơ.
Nhưng có thật trong chất liệu thơ hay chỉ có rặt duy cảm không thôi hay không?
Bởi vì đây cũng là Xuân Diệu: "Yêu là chết ở trong lòng một ít/Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu/Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu/Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết". Và đây cũng là Huy Cận: "Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu/Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người".
Còn với dòng thơ cách mạng thì càng khỏi nói, với một Chế Lan Viên: "Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn". Đặc biệt là Tố Hữu: "Khóc là nhục, rên hèn, van - yếu đuối/Và dại khờ là những lũ người câm…".
Và chẳng hạn, trong bài thơ nổi tiếng của nhà thơ - liệt sĩ thời chống Mỹ Nguyễn Mỹ, bài "Cuộc chia ly màu đỏ", với những câu thơ một mình làm nên một cuộc tranh cãi, một cách dùng lý sự cố tình như khiêu khích: "Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy/Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy…/Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi/Như không hề có cuộc chia ly"…
Đó vẫn chắc là những câu thơ mà không ít người Việt thế kỷ XX vẫn thuộc nằm lòng, mà ta dễ dàng thấy chúng mang đầy lý tính, thậm chí còn triết lý chay bằng ngôn từ khái niệm như văn xuôi…
Nhiều nhà thơ, trong cuộc tìm kiếm để cách tân thi ca đã cảm thấy không còn vừa lòng với thứ thơ chỉ có duy cảm không thôi. Chế Lan Viên là nhà thơ tiêu biểu trong số này. Và vào cuối thập kỷ 60 của thế kỷ trước có một nhà thơ đã tích cực phá tung khuôn khổ của thơ duy cảm và đạt được một số thành tựu đáng kể - đó là nhà thơ Việt Phương với tập thơ "Cửa mở" gây tranh cãi một thời.
Trong lời đề từ của tập thơ này, ông đã nói một cách hình ảnh một vị thế mới của chủ thể con người nhỏ bé trước sự đè nén của thế giới ngoại cảnh từ hàng ngàn năm nay: "Ơi ngôi sao biếc trên trời/Sao long lanh thế vì người cần sao/Mai này ta đủ tầm cao/Sao cần ta lắm nên sao sáng ngời".
Đó là một thái độ sống và cũng là một thái độ làm nghề của nhà thơ đã mang đầy chất tư tưởng, triết học vào trong thơ, với những câu thơ mang tính phản biện hiếm hoi trong nền thơ cách mạng, tuy một thời bị "lườm nguýt" nhưng nay thì đã hoàn toàn được chấp nhận!
Và đó là thứ thơ đã đặt một chân vào thơ duy lý.
Đây là một câu chuyện viết cả ngày không hết, mà nếu mở rộng ra thứ thơ đã được trang bị thêm đôi cánh của âm nhạc - tôi muốn nói đến kho ca từ vĩ đại của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, một người đã đem triết học vào ca từ âm nhạc một cách "dễ như thò tay vào túi lấy đồ vật" … thì là một cuộc trò chuyện lý thú và bất tận luôn.
Nhưng thôi, một bài báo nhỏ không thể tham, xin nói tiếp một ý cũng rất bao la nữa: Thơ là để hiểu hay để cảm?
Thực ra vấn đề này rất gắn bó với điều vừa nói ở trên, nhưng không phải là một. Xưa nay, nhiều người đọc thơ đã quen khi đọc một bài thơ là phải tìm ra nó định nói một hay nhiều điều gì - ta quen dùng từ "thông điệp" để mô tả điều này một cách phổ quát nhất. Vâng, thơ là văn học, là nghệ thuật của ngôn ngữ, vậy thuộc tính của ngôn ngữ là công cụ để con người giao tiếp với nhau, hiểu nhau, thông cảm với nhau… Vậy thơ phải cần được người đọc hiểu nó. Thế thôi!
Những câu thơ xưa thì "dĩ tải đạo", nay thì tự nguyện làm một thứ "vũ khí trên mặt trận văn nghệ" để tham gia vào công cuộc chiến đấu và xây dựng thì dĩ nhiên phải được người đọc hiểu rõ nội dung, nghệ thuật của chúng, thậm chí chúng càng "đại chúng" bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Ấy thế, mà ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, khi cách mạng còn trứng nước, nhà thơ Nguyễn Đình Thi, một cán bộ cách mạng, một nhà lãnh đạo văn nghệ, lại tung ra thứ thơ… không hoàn toàn dễ hiểu, với một chủ trương mà lúc ấy đã gặp phải nhiều sự bất đồng. Đó là thứ quan niệm thơ vẫn phục vụ cách mạng và cuộc sống, dĩ nhiên, nhưng phải bằng cách của nó - và ở đây, thơ có những quy luật riêng, không thể bị đơn giản hóa thành một thứ văn học tuyên truyền có vần điệu thô sơ.
Từ đó, càng ngày các nhà thơ (chưa nói tới các nhà thơ sống ở vùng chính quyền không thuộc phía cách mạng) dần dần nhận ra rằng thơ là một thứ ngôn ngữ đặc biệt, khác hẳn văn xuôi (và các loại văn khoa học), và trong thơ, ngôn ngữ không chỉ có tác dụng chở ngữ nghĩa thuần túy, mà nó còn truyền cảm xúc, tư tưởng bằng cái vỏ âm thanh - tức là phần không có nghĩa của nó.
Và với thứ thơ này, người đọc vừa có cả sự hiểu lẫn sự cảm. Ở đây chưa nói đến những người cực đoan cho rằng thơ thuần túy chỉ là để cảm, không cần hiểu - thậm chí có người thần thánh hóa thơ như một thứ tiếng nói của tiềm thức, tức là không cần có ý thức (có nhà thơ lúc ngủ cũng để bút giấy bên cạnh, trong mơ cũng làm thơ, tỉnh giấc phải ghi ngay, kẻo sáng ra… quên mất…).
Thú thực, chính tôi đã viết quá nhiều bài về điều này, giờ nhắc lại thấy mệt và thừa. Chỉ lấy vài ví dụ thôi. Chẳng hạn, những câu thơ: "Tài cao, phận mỏng, chí khí uất/Giang hồ mê chơi quên quê hương" (Tản Đà); "Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi…" (Quang Dũng)
Đọc - đúng hơn là nghe những câu thơ như thế ngay người nước ngoài không biết tiếng Việt dù không hiểu nội dung cụ thể là gì, nhưng vẫn cảm nhận được hồn vía chúng nhất định gợi ta đến những gì… Và đó là cái mà Giáo sư Phan Ngọc gọi là "ngôn ngữ quái đản" của thơ, thứ ngôn ngữ lấy chính nó làm mục đích tự thân.
Tôi không thuộc số cực đoan đến mức chỉ đứng hẳn về một phía mà vẫn công nhận ngôn ngữ thơ vừa mang ngữ nghĩa cần thiết, vừa phải được hỗ trợ tích cực bởi những yếu tố phi ngữ nghĩa mà ta tạm gọi là nhạc tính.
Bài viết đã dài, để kết luận tạm thời xin kể một chi tiết nhỏ:
Nhân lúc viết bài này, vấn đề quá phong phú và thú vị nên tôi đã lăng xê lên cái trang mạng xã hội cá nhân của mình là facebook một cái "test": Mời mọi người chọn một bài thơ mà mình cho là hay nhất mọi thời đại trong nền thơ Việt Nam. Khó đấy và sẽ rất phân tán. Nhưng nếu mọi người tham gia tích cực vào trò vui nay, ta sẽ phần nào hiểu được nhiều điều về cách hiểu và đọc thơ, yêu thơ của người Việt Nam, dù trong phạm vi bé tý của cái "tờ báo bỏ túi" của tôi.
Và thú thật, với tôi, tại thời điểm này, tôi cũng có một sự lựa chọn, nhưng có lẽ phải giữ bí mật đã, hy vọng có lúc sẽ bật mí tên bài thơ mà tôi chọn là hay nhất mọi thời đại của thơ ca Việt Nam!
Chỉ xin bật mí một tiêu chí để chọn của tôi là: Bài thơ hay nhất là bài thơ mang phẩm chất tinh túy nhất của thơ, nghĩa là nó đúng là thơ nhất. Vậy thôi!
Anh Ngọc