CHỮ HUÝ ĐỜI TRẦN
WEDnesday - 05/03/2014 05:31
Tháp Phổ Minh
Trong các văn bản Hán Nôm, chữ huý là những chữ vì lí do kiêng tên của vua chúa, các vị thần, của người thân trong gia tộc... mà người viết, theo quy định hoặc tự nguyện, đã phải viết biến dạng để trống hoặc thay đổi hẳn đi. Cả quần thể chữ húy họp lại tạo thành một hệ thống những biệt lệ của chữ viết. Người nghiên cứu cần nắm được những biệt lệ đó để đọc văn bản, từ đó nhân ra những biến động về văn bản do việc kiêng huý gây ra. Mặt khác, các chữ huý gắn với những nguyên nhân ra đời và tồn tại của nó, cho nên có thể dùng nó như những chiếc “chìa khoá” để giám định niên đại cho văn bản.
Những người nghiên cứu Hán Nôm thực tế đều tự lý giải những chữ huý thường gặp. Nhưng cho đến nay chúng ta chưa có công trình nào tổng kết thể thức kiêng huý các đời, lấy chữ huý làm đối tượng nghiên cứu khảo tả để có thể cung cấp phương tiện tra cứu khi cần thiết. Cố gắng theo hướng đó, trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu kết quả khảo sát một số chữ huý đời Trần, bước đầu tìm hiểu những định lệ và thể thức viết chữ huý ở thời kỳ này.
I. Lệ viết kiêng huý có từ thời nào?
Những thông tin đầu tiên về việc viết kiêng huý được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư (gọi tắt: Toàn thư) bắt đầu ở kỷ nhà Trần, Suy ra có thể hiểu rằng trước đời Trần các triều đại độc lập của nước ta không có lệ kiêng huý chữ viết nhưng không loại trừ một khả năng: có thể vì thiêu tài liệu mà sử không chép hoặc chép sót. Vì vậy chúng tôi đã tìm những tư liệu liên quan để giải đáp cho câu hỏi này.
Di vật có chữ viết thời Đinh - Lê còn lại rất ít. Đáng chú ý dòng lạc khoản ở cột kinh khắc năm 973 có ghi họ tên người chủ trì việc khắc dựng là “Nam Việt Vương Đinh c Liễn”(1). Điều này gợi một ý tham khảo: Đinh Liễn là nhân vật số hai của triều đình đã được vua cha uỷ cho danh nghĩa đứng đầu vương quốc khi giao thiệp với nhà Tống, trong môi trường có lệ viết kiêng huý thì ở dòng lạc khoản nêu trên ông chỉ cần ghi “Nam Việt vương Đinh” là đủ.
Về văn bia đời Lý, số lượng bia đã biết và công bố là 10 bia(2). Số bản rập (thác bản) hiện có ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm là 6. Kết quả khảo sát 6 bản rập đó cho thấy: 2 bản không gặp chữ cần xem xét (No20953, No20957), 4 bản khác có 12 chữ tên của cả ba vua Lý và 1 chữ tên mẹ vua:
1. Chữ Uẩn (tên huý của Lý Thái Tổ) ở bia chùa Linh Xứng. núi Ngưỡng Sơn, dựng năm 1126 (No20954); 2 chữ Tôn (tên húy của Lý Thánh Tông) ở bia mộ chí Phụng Thánh phu nhân họ Lê, dựng năm 1174 (No20955), và bia chùa Báo Ân, dựng năm 1920 (No4102); 4 chữĐức (tên huý Lý Nhân Tông) ở văn bia chùa Báo Ân (đã dẫn); một chữChâu (tên huý của hoàng hậu họ Đỗ, mẹ vua Lý Cao Tông ở bia chùa Báo Ân (đã dẫn).
Các chữ kể trên đều khắc đúng nét theo lối viết bình thường không kiêng huý. Với kết quả khảo sát đó, chúng ta có cơ sở để kết luận rằng từ đời Lý về trước ở nước ta chưa có định lệ viết kiêng húy, và những định lệ về việc đó chỉ bắt đầu cơ từ thời Trần như sử cũ đã ghi.
II. Các điều lệnh kiêng huý đời Trần
Hiện chỉ có Toàn thư là tài liệu duy nhất cho biết một số điều lệnh kiêng huý ở đời Trần (Cuơng mục triều Nguyễn trong phần sọan lại sử đời Trần, đã lược bỏ hầu hết các khoản ghi đó). Từ thời Thái Tông (1225 - 1258) đến Thuận Tông (1388 - 1398), tức là gần hết đời Trần, sử ghi 8 lần triều đình xuống lệnh kiêng húy. Nội dung các quy định như sau:
1. Ban bố những chữ phải kiêng huý:
- Năm 1232: Toàn thư không ghi rõ chữ huý, nhưng lệnh cấm năm 1294 sẽ nhắc lại, so sánh có thể xác định năm này lệnh nêu 3 chữ huý là: Lý, Thừa, Cảnh (Thái Tông, Kiến Trung 8, BK5,7b)(3).
- Năm 1294: Ban bố 10 chữ huý: Thuyền, Khẩm, Khoảng, Cảnh, Thừa, Lý, Phong, Diệu, Oánh, Hâm (Anh Tông, Hưng Long 2, BK6, 1a).
- Năm 1298: Ban bố hai chữ huý: Nguỵ, Châu (Anh Tông, Hưng Long 6, bk6 5a)
- Năm 1299: Quy định 10 chữ huý: Liễu, Nguyệt, Nguỵ, Thấp, Nam, Kiều, Tô, Tuấn, Anh, Tảng (Anh Tông, Hưng Long 7, BK6, 5b)
- Năm 1314: Nhắc lại các chữ húy trước, thêm 3 chữ, tên huý của Ninh Hoàng (tức Trần Minh Tông) huý Manh, và của cả 2 Thái hậu Tuyên Từ, Bảo Từ (không rõ tên) Anh Tông, Hưng Long 22; BK6, 31a)
2. Quy định thể thức kiêng huý:
- Lệnh năm 1232: quy định đổi họ Lý làm họ Nguyễn vì lí do kiêng huý của nguyên tổ (vị sáng lập) là Trần Lý.
- Lệnh năm 1299: quy định khi làm văn không được dùng chữ Liễu và chữ Nguyệt. Còn đối với các chữ huý khác (nêu trong lệnh ấy) thì phải viết bớt nét.
- Lệnh tháng 8 - 1304: quy định “phàm những chữ miếu và ngự danh thì phải viết bớt nét” (Anh Tông, tháng 7 Hưng Long12; BK6, 19b)
3. Quy định những chữ thôi kiêng huý:
- Lệnh năm 1395: Quy định bỏ chữ huý Nguyệt và Nam, cho dùng như cũ(Thuận Tông, Quang Thái 8; BK, 15a).
4. Quy định những chữ không được viết kiêng húy:
- Lệnh tháng 9 - 1304 cấm viết bớt nét theo lối kiêng huý đối với 8 chữ miếu huý của nhà Lý(4) (Anh Tông tháng 8 Hưng Long 12, BK6, 19b).
III. Chủ nhân của chữ huý và lệ chứng văn bản
1. Về tên huý của hai đời bậc trên của Trần Thái Tông:
a) Lý: Toàn thư chép: “Vì nguyên tổ huý Lý, cho nên đổi họ Lý làm họ Nguyễn, vả lại để tuyệt lòng mong nhớ của dân đối với nhà Lý” (BK5, 7b). Với điều kiện đó, nhà Trần chính thức ban bố tên huý của ông nội Trần Thái Tông (cha của Thượng hoàng Trần Thừa) là Trần Lý. Việc một người nào đó dùng biểu tự của một dòng họ khác để đặt tên mình, nói chung không phổ biến lắm. Trong trường hợp này lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa tên ông nội vua với họ của triều vua vừa bị thay thế. Lại liên hệ với một trường hợp tương tự sau này nhà Lê cũng công bố chữ Trần là tên húy của Hoàng hậu (vợ) Lê Lợi (Phạm Thị Ngọc Trần) (BK10. 58b), và người họ Trần, vì vậy phải đổi làm họ Trịnh. Sự việc như vậy, gợi lên câu hỏi: Phải chăng cả hai vương triều này đã sử dụng lệ kiêng huý như một biện pháp đặc biệt “để tuyệt lòng mong nhớ” của người dân đối với triều vua trước? Lệnh kiêng húy nói trên có lẽ đã được thi hành khá chặt chẽ. Chúng ta đã biết tên những người họ Lý phải sửa thành họ Nguyễn trong các văn bản đời Trần: trongĐại Việt sử lược, Thái uý Lý Thường Kiệt đổi là Nguyễn Thường Kiệt, tiêu đề kỷ nhà Lý đổi ghi là Nguyễn Kỷ vv... Thiền uyển tập anh(bản in năm 1715 dựa theo văn bản đời Trần) đổi họ của sứ nhà Tống là Lý Giác thành Nguyễn Giác vv...
b) Thừa 承 tên huý của Trần Thừa, Thái thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần: chữ này (Thừa 1) có nghĩa là: vâng chịu, tiếp nối, đồng âm với chữ 丞 (Thừa2 = giúp) và đồng âm với một trong 2 âm của chữ 乘(Thừa3 = nhân theo, tăng thêm; Thặng = cỗ xe, đánh xe).
Cả 3 chữ Thừa nói trên, âm tiếng Hán thời Đường - Tống đều học làThằng. Các từ thư tự điển cố ghi âm là “Thự lăng thiết” (= Thằng)(5). Riêng chữ huý thứ 3 với nghĩa gốc là cỗ xe, đánh xe thì đọc âm theo âm Thặng (ghi âm là “Thực chứng thiết”).
Nhưng trong cách đọc âm Hán Việt chúng ta vẫn quen đọc cả 3 chữ ấy với âm Thừa (riêng chữ huý thứ 3 giữ thêm âm Thặng) Chẳng hạn vớiThừa 1 (= tiếp nối) có “kế thừa” = tiếp nối với trước; Thừa 2 (= giúp) có “thừa tướng” = người giúp vua xử lý triều chính; Thừa3 (= nhân theo, tăng lên) có “thừa số” = số tăng lên; “Tiều thừa”, “Đại thừa” - các môn phái Phật giáo.
Như vậy, âm Thừa xuất hiện trong các đọc Hán - Việt có thể coi là một trường hợp rất đặc biệt(6), cần được nghiên cứu thêm. Theo ý kiến chúng tôi thì ở thời Trần một số âm Hán Việt đã phải thay đổi cách đọc do định lệ kiêng huý, như Nguyệt ® ngoại, Nam ® Nôm, Kiền ® càn (xin xem ở mục viết về chữ Hán này). Về sau, tuy không phải kiêng huý những chữ đó nữa nhưng thể biến âm của nó đã lưu truyền khá rộng rãi trong dân gian và tiếp tục còn lại đến nay, song song với chính âm, Chữ Thừa 1 theo ý kiến chúng tôi là một chữ thuộc loại này. Trước đời Trần cả 3 chữ thừa 1, 2, 3 vẫn được đọc là Thằng (Thừa 3 thêm âm Thặng). Đến đầu đời Trần âm đó trùng với tên huý của người cha Trần Thái Tông (rất có thể là một tên Nôm), do đó phải đổi cách đọc: Từ đây nó theo cách biến âm đã có tiền lệ trong tiếng Việt rụng a; → ưa như Gs Nguyễn Tài Cẩn đã gợi ý, xem chú (6) mà đọc thànhThừa, tiểu thừa, đại thừa... là thuật ngữ Phật học chỉ môn phái Phật giáo, các từ điển đều xếp ở âm “Thặng ” với ý nghĩa Phật giáo coi các tăng sĩ như những cỗ xe truyền đạt tư tưởng của Phật đến khắp chúng sinh. Như vậy đáng phải đọc là Tiểu Thặng, Đại Thặng, huý đó sử dụng rộng rãi, lâu dài, cả sau đời Trần đến nay, hầu như đã thay hẳn chính âm, chỉ còn lại dạng Thặng liên quan đến việc đọc kinh điển Nho giáo mà thôi.
- Chữ Thừa 1 chưa tìm thấy mẫu viết, nên kiêng huý, chỉ mới thấy một dạng kiêng huý bỏ trống ô chữ ở câu “Tự thị c tiên húy bất tòng”. ở vị trí bỏ trống c chú bằng chữ nhỏ: “Thái Tổ huý” (Thiền uyển tập anh,tờ 30 d). Tên huý của Thái Tổ nói ở ở đây tức là chữ Thừa 1, (Trần Thừa chỉ là Thái Thượng hoàng, không chỉ chính thức ở ngôi vua, nhưng các vua Trần vẫn tôn xưng là Thái Tổ)
- Chữ Thừa 2 có thể tìm thấy biểu hiện kiêng huý trong việc đổi gọi chức quan. Năm 1299 Trần Anh Tông lấy Đoàn Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán. Chức quan này nhà Tống gọi là Ngự sử trung thừa(7). Nhà Trần vì kiêng âm thừa, đổi làm ngự sử trung tán (lấy tán thay cho thừa 2, đều có nghĩa là giúp)
- Chữ Thừa 3 hiện đã phát hiện được mấy mẫu chữ kiêng huý khắc trên bia, chuông:
- Bài Kí khắc trên chông quán Thông Thánh ở Bạch Hạc do Hứa Tông Đạo soạn, đề niên hiệu Đại Khánh ()1314-1323) đời Trần Minh Tông(No4997) có câu: “Đồng lưu phụ bách, thừa hứng nhập Nam” (Theo dòng xuôi thuyền, nhân cảm hứng đi vào nước Nam). Nền bản rập hơi mờ, nhưng soi kính lúp thấy rõ chữ Thừa 3 khắc một nét mác, thay vào đó một vòng tròn nhỏ (xem ảnh 1)
Bài kí khắc bia ở vách đá Đại Bi chùa Sùng Nghiêm núi Vân Lỗi do Phạm sư Mạnh soạn năm Thiệu Khánh 3 (1372) đời Trần Nghệ Tông (No20965) có các câu: “Thừa u không tịch” (cưỡi cõ i tối, không thể chế cõi lặng); “Thừa hứng du phương” (nhân cảm hứng đi du ngoạn nhiều nơi): Cả hai chữ Thừa 3 trên đây đều cùng một mẫu chữ Thừa 3ở quán Thông Thánh (so sánh ảnh 1 và 2)
2. Tên huý các vua Trần:
Ngoài các chữ huý đã ghi trong toàn thư (Thái Tông: Cảnh(8). Thánh Tông: Hoảng; Nhân Tông Khẩm, Anh Tông: Thuyển, Minh Tông:Mạnh; Hiến Tông: Vượng; Dụ Tông: Hạo; Nghệ Tông: Phủ; Duệ Tông: Kính; Phế Đế: Hiện; Thuận Tông: Ngung; Thiếu Đế: An; Hậu Trần Giản Định: Ngỗi, Trùng Quang: Quý Khoáng). Còn có một số tên huý khắc được ghi lại trong An Nam chí lược (ANCL) của Lê Trắc (thế kỉ XIV):
- Thái Tông từ năm Mậu Ngọ (1258) đổi tên là Quang Bính (ANCL, Q12, 1b); Thánh Tông trước còn có tên là Thế (Q12,2a); Nhân Tông đổi tên là Nhật Huyế (Q12,2a), lại có chỗ ghi là Nhật Tôn ( Nhật + Tôn) (Q2, 5b); Anh Tông còn có tên là Nhật Sủy (Trên chữ hoả dưới chữ Trường); Trần Minh Tông có tên cũ nay là Thiên Minh(9), sau đổi là Nhật Khoảng.
Ngoài ra nguyên sử (Q.209) còn ghi Trần Thánh Tông có tên là Quang Nột (Khẩu + Nội); Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng (Thế kỷ XV)ghi thêm 2 tên huý khác: Trần Dụ Vương (Tức Dụ Tông) còn có tên huý là Lộc Tinh; Nghệ Vương (tức Nghệ Tông) huý là Thúc Minh.
Nhận xét: các chữ huý đã kể trên đây, chúng ta có thể thấy các vua Trần hầu hết đều chọn những chữ “hóc hiểm” để đặt tên. Những chữ ấy phần nhiều đều có nghĩa từ vựng rất đẹp, nhưng sắc thái ngữ nghĩa không mấy khác nhau: đều là những đặc tính của ánh sáng, như Cảnh= ánh sáng mặt trời, Hoảng = ánh sáng rực rỡ, Khẩm = sáng rõ;Thuyển = ánh lửa vv... Đó là những chữ không những ít dùng trong các văn thư thường ngày, mà ngay cả trong sáng tác văn học cũng không mấy gặp. Thậm chí có những chữ như Suỷ (trên chữ hoả + dưới chữ trường) do ANCL ghi, thì ngay cả tự điển Ngọc Thiên (dẫn trongKhang Hy) cũng ghi là “không rõ nghĩa gì”. Hoặc như chữ (trên An + dưới hoả) mà chúng ta tạm đọc âm là An, thực ra chưa rõ âm định ghi là gì. Soạn giả Cương mục phải chú rằng: “Tra trong tự điển (ChỉKhang Hy tự điển) khắp các phần bị khảo, bỏ đi đều không thấy có chữ này, chưa rõ âm đọc thế nào”!
Có thể thấy dụng ý của người đặt tên, cốt cho tên huý các vua khỏi trùng với tên của dân thường. Và cũng do những chữ ấy rất ít khi xuất hiện trên giấy tờ sách vở nên người viết sách chép sách cũng đỡ phải sử lý việc kiêng huý. Nhưng cũng do đặc điểm này, trong tình hình các văn bản thư tịch, bi kí đời Trần hiện còn rất ít, xác suất tìm thấy nguyên mẫu chữ húy của các vua Trần là rất thấp.
An Nam chí lược ghi lại khá đủ một bộ tên huý đã thay đổi của các vua đầu đời Trần trong khi các sử sách nước ta không hề nói đến. Những tên huý đó xuất hiện rải rác trong các trích lục chiếu chế của nhà Nguyên gửi cho vua Đại Việt, điều đó khiến ta có cơ sở để đoán định rằng: trong các văn thư giao thiệp với nhà Nguyên, các vua Trần đã tự xưng một tên khác (hoặc nói đổi tên). Có thể coi là những “tên giả”, chỉ đặt ra để dùng với nhà Nguyên. Có thể lý giải lí do sử dụng tên giả là vì trong quan hệ ngoại giao với nhà Nguyên trước và trong thời gian 3 lần nhà Nguyên xâm lược nước ta, các vua Trần đề phòng việc quân giặc xấc xược phạm đến tên huý của tông miếu và uy tín của vương triều. Cuối đời Trần, trong quan hệ ngoại giao căng thẳng với nhà Minh, biện pháp đó tiếp tục được thực hiện, và do vậy có thêm một số tên huý giả kiểu đó ghi trong Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng.
3. Về các chữ “nội huý” (tên huý của các Hoàng hậu)
Gồm 4 chữ: Phong, Diệu, Oánh, Hâm. Các bà hoàng này kể từ khi được chọn vào cung làm vợ vua, đến khi chính thức được lập làm Hoàng hậu, khi sinh Hoàng tử nối ngôi vv... đều có những tôn hiệu khác nhau. Vì vậy chỉ căn cứ những điều ghi riêng biệt thì không dễ nhận ra ngay chữ huý nào chỉ bà Hoàng hậu nào. Tuy vậy, phối hợp với các điều ghi trước sau trong Toàn thư, có thể xác định được 3 trong 4 chữ kể trên:
- Oánh: Tên huý của bà Hiển Từ Hoàng hậu họ Lý (Lý Thị Oánh), con gái trưởng của Lý Huệ Tông, hiệu Thuận Thiên công chúa, trước là vợ của Hoài Vương (tức An Sinh Vương) Trần Liễu, sau là Hoàng Hậu, của Trần Thái Tông, mẹ đẻ của Trần Thánh Tông.
- Hâm: tên huý của Nguyên Thánh Hoàng hậu họ Trần (Trần Thị Hâm), con gái thứ năm của An Sinh Vương Trần Liễu, Thánh Tông lập làm Thiên Cảm Hoàng hậu. Bà là mẹ đẻ của Trần Nhân Tông, bà nội của Anh Tông. Toàn thư (BK5, 24b) còn ghi bà có tên huý là Thiều,nhưng chữ ấy không thấy ghi trong bản kê chữ huý.
- Diệu: tên húy của Thuận Từ Hoàng hậu họ Lê (Lê Thị Diệu) mẹ của Trần Thái Tông.
- Về chữ Phong (trùng + phong = con ong), Toàn Thư ghi tên huý của Thánh Từ Hoàng hậu. Nhưng từ thời Anh Tông trở về trước không thấy Toàn Thư chép bà Hoàng nào hiệu là Thánh Từ. Trong các sách chép thế phả nhà Trần có cuốn Trần gia ngọc phả (A2046) là tài liệu duy nhất, tuy không ghi tôn hiệu Thuận Từ, hoàng hậu, nhưng có chép phu nhân của thượng Hoàng Trần Thừa họ Lê tên là Phong. Nhưng sách này phạm nhiều sai lầm thô bạo(10), vì vậy không đáng tin cậy. Vả lại có thể lí giải điều sai lầm này có thể là do người làm sách Trần gia ngọc phả dựa theo Toàn Thư mà nhặt ra, thấy phần đầu kỷ nhà Trần chép việc Trần Liễu giữ chức Tri thánh từ cung từ đó suy ra vợ của Thượng hoàng (ở cung Thánh Từ) thì cũng có hiệu là Thánh Từ Hoàng hậu. Sự thực thì không riêng ở đời Thái Tông, các triều vua đầu đời Trần đều gọi nơi ở của thượng hoàng là Cung Thánh Từ. Hơn nữa, đó cũng là cơ quan hành chính có các quan chức phân biệt với quan chức ở cung quan triều là cơ quan và văn phòng của vua đương vị. Chẳng hạn: năm Thiệu Phong thứ tư (1344), Trần Dụ Tông đổi Hành khiển tị ở cung thánh từ làm Thượng thư sảnh... (BK&).”. Bởi hai lẽ trên có thể xác định Thánh Từ không phải là hiệu của bà vợ Trần Thừa(11).
Đối với Anh Tông mà nói, thì trong 4 chữ nội huý nói trên, còn thiếu tên mẹ và vợ. Nhưng lúc xuống lệnh đã dẫn (1294) Anh Tông chưa lập Hoàng Hậu, phải 15 năm sau (1309), khi Hoàng thái tử Mạnh được phong, thì bà mẹ mới được tôn lập làm Thuận Thánh Hoàng hậu. Như vậy, có thể xác định chữ Phong là tên huý của mẹ Anh Tông, tức Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng thái hậu, con gái trưởng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, vợ của Nhân Tông. Còn sự khác biệt giữa Khâm từ và Thánh Từ, với lý do đã nói, có thể lý giải là do Toàn Thưchép nhầm (hoặc bản in, kể cả bản Chính Hoà thứ 18(1697) đã khắc in nhầm từ Khâm Từ ra Thánh Từ).
4. Về các chữ huý của họ ngoại:
ở lệnh năm 1299 (đã kể trên), sau khi ghi các chữ húy Toàn Thư nhận xét thêm: “nhà Trần kiêng huý họ ngoại bắt đầu từ đó” (BK6,5b). Do có quan hệ hôn nhân nội tộc, cho nên họ ngoại của các vua Trần từ Thánh Tông đến Anh Tông trong thực tế cũng chính là họ nội (xem đoạn nói về 4 bà hoàng hậu ở trên). Nhưng những người có tên được kiêng huý không phải xét theo thứ bậc chú bác (trong họ nội) của vua, mà vì họ là bố mẹ của vua. Bên họ ngoại đó, An Sinh Vương Trần Liễu và phu nhân là Thiệu Đạo quốc mẫu huý Nguyệt là 2 vị tổ ở thế thứ cao nhất. Sự hiềm khích giữa Trần Liễu và Thái Tông (do sự việc về bà công chúa Thuận Thiên) đã được giải toả phần nào khi hai người còn sống. Sau đó, với công lao to lớn và lòng trung thành tuyệt đối của Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn đối với tổ quốc và vương triều Trần, danh vọng của chi họ An Sinh càng trở nên nổi bật. Vì vậy 2 chữ Liễuvà Nguyệt được xếp vào hạng trọng huý, ghi thành một khoản riêng trong lệnh năm 1299 quy định hai chữ ấy khi “làm văn không được dùng”.
Hiểu chặt chẽ thì “không được dùng” có nghĩa là phải có đổi dùng chữ khác hoặc khi viết phải để trống ô chữ. Tuy vậy, qua khảo sát tìm thấy một số chữ Nguyệt viết bớt nét chứ không phải hoàn toàn không được viết ra. Mẫu chữ Nguyệt có thể có đến 4 kiểu:
+ Kiểu bên trong chỉ có một nét (hoặc gạch ngang, hoặc gạch lệch)
- ất Hợi tứ Nguyệt (bia chùa Đại Bim xã Hướng Đạo, huyện Văn Lầm, dựng năm Khai Hựu 4 (1327) đời Trần Minh Tông, N05310; Bính dần tam nguyệt( N 05310 đã dẫn).
+ Kiểu bên trong đủ hai nét ngang nhưng không đóng khít
- Tuế thứ Nhâm Ngọ niên ngũ nguyệt (bia chùa Sùng Thiên, xã Thị Đức, huyện Gia Lộc dựng năm Khải Hựu 3 (1331) đời Trần Hiến Tông, No5114).
+ Kiểu cắt một nét bên thân (trái hoặc phải)
- Tại Thanh Hóa phủ Nguyệt Nga hạng (bia chùa Sùng Thiên, No5114, đã dẫn, xem ảnh 3)
- Tư kỷ kỳ nhật nguyệt (Bia vách đá đại Bi, chùa Sùng Nghiêm, núi Vân Lỗi No20965, đã dẫn, xem ảnh 4).
+ Kiểu cắt một nét ngang qua thân chữ
- Thiên phong thập thất niên Đinh Dậu chính Nguyệt (bia chùa Phúc Hưng, xã Chỉnh Đốn, huyện Gia Viễn, dựng năm Thiệu Phong 17 (1357) đời Trần Dụ Tông, No19162)
Mấy lệ chứng trên đây cho thấy các kiểu viết kiêng huý chữ Nguyệt ở đời Trần trong thời gian lệnh kiêng huý có hiệu lực (1299_ 1395). Mặt khác cũng có thể thấy lời ghi của Toàn Thư: “Khi làm không đựơc dùng”có lẽ chỉ là cách nói để nhấn mạnh, còn thực sự thì không cấm hẳn, chỉ cần viết bớt nét hoặc làm cho biến dạng đôi chút để phân biệt với chính tự là đủ.
Đáng chú ý như chữ Nguyệt được kiêng huý khá rộng rãi cả ngữ âm: do kiêng húy từ đời Trần mà chữ Nguyệt đọc và nói chệch thànhNgoạt. Nhiều địa phương cả 3 miền nước ta vẫn quen nói: “lúa bát ngoạt” (= lúa Ba Trăng, lúa trồng trong 3 tháng). Tờ khai sắc thần làng Long Phước huyện Vĩnh Bình tỉnh Vĩnh Long (cũ) khai bằng chữ Quốc ngữ khoảng năm 1938 phiên âm dòng lạc khoản là “Tự Đức ngũ niên thập nhứt ngoạt (TV. KHXH: Q4o18/35, bản khai số 68).
- Kiền chữ thứ 2 trong tên tước 2 chữ của Phụng Kiền vương Trần Liễu (tước hiệu cũ được ban dưới thời nhà Lý, BK5, 10a). Chính âm của chữ này đọc là Kiền (cừ yên thiết), từ trước đời Trần vẫn đọc là Kiền. Đời Trần, vì kiêng huý chuyển đọc là càn. Đến nay chúng ta cũng vẫn còn quen đọc càn. Cũng do kiêng huý mà cửa Cờn (Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh) đời Lý ghi tên chữ Hán Kiền hải, đến đời Trần Anh Tông vì kiêng huý đổi tên là Cần Hải (BK6,30a). Núi Kiền Ni (xã Phủ Lý huyện Đông Sơn, Thanh Hoá) còn chùa Hương Nghiêm, tên núi ghi rõ ở bia chùa này (No20957) dựng năm 1124 đời Lý Nhân Tông, sáchThiền Uyển tập anh của soạn giả đời Trần đổi chép là núi Ma Ni (tờ 63a). Bia chùa Sùng Nghiêm núi Vân Lỗi (đã dẫn) cũng ghi tên núi Kiền Ni thành Ma Ni.
- Tuấn , tên huý của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn: vương vừa là bố vợ của Trần Nhân Tông, vừa là ông nội của vợ Trần Anh Tông.
- Anh, tên huý của Công chúa Thiên Thành, con gái của Thượng hoàng Trần Thừa, phu nhân của Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn, thời Anh Tông truy tôn là nguyên Từ quốc mẫu. Sở dĩ có thể xác định được tên của bà Trần Thị Anh, vì chữ Anh (trong lệnh năm 1299) xếp sau chữ Tuấn (tên chồng) và trước chữ Tảng (tên con).
Cuốn Dược sơn kỷ tích toàn biên (A.709, in ván gỗ năm Thành Thái Kỷ Hợi,1899) tuy thuộc loại sách thờ cúng Đức Thánh Trần, nhưng có phần hành trạng Hưng Đạo Vương biên soạn tuơng đối tốt. cũng ghi vương phi Nguyễn Từ quốc mẫu tên huý là Anh (tờ3b). Có điều là sách ấy ghi chữ Anh theo kiểu “thượng tòng thảo, hạ tòng ương” thì hẳn đó là cách ghi của người làm sách đời Nguyễn, chứ không phải mẫu chữ huý đời Trần.
Gần đây Phòng bảo tàng Hải Hưng mới phát hiện trong bia tháp Viên Thông chùa Thanh Mai (xã Hoàng Hoa Thám, huyện Chí Linh) dựng năm Đại trị thứ năm (1362) đời Dụ Tông(12). Chúng tôi chưa có dịp xem bia hiện vật, nhưng đã được ông Hà Văn Tấn giúp cho xem bản rập của bia này: mặt trước của bia rập khá mờ, mặt thứ 2 rõ hơn, trên mặt đó có hai chữ Anh (đều ghi miếu hiệu Anh Tông) khắc chữ kiêng huý theo dạng: 英 (so với chính tự thì nét ngang giữa thân chữ huý này thu ngắn lại, không thòi ra hai đầu). Đó là một mẫu chữ thêm vào bộ sưu tập chữ huý đời Trần.
- Tảng, tên huý của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng con thứ 3 của Hưng Đạo Vương, con gái của ông là vợ của Anh Tông. trước được phong là Thánh Tư phu nhân, sau lập làm Thuận Thánh hoàng hậu.
Như vậy là trong lệnh năm 1298 và 1299 còn đến 5 chữ Nguỵ, Châu, Thấp, Nam, Tô chưa biết rõ là tên húy của người nào. Trong đó, 2 chữNam và Tô hiện đã tìm được cứ liệu chữ mẫu:
- Nam
+ Câu đã dẫn ở bài kí khắc chuông Quán Thông Thánh ở Bạch Hạc (No4997) “...thừa hứng nhập nam” có thể thấy rõ chữ Nam 南 khắc bớt một nét sổ ngắn trong lòng chữ (xem ảnh 5).
+ Bia chùa Sùng Nghiêm núi Vân Lỗi (N020965) đã dẫn có câu “Kì Nam ấp trường giang...” (Phía Nam có sông dài bao quanh...) có thể thấy rõ (ảnh 6) phần bên trong của chữ Nam được viết tựa như chữ “ngọ”,tức là cố ý bớt một nét phẩy, ngắn ở trên. Về cách đọc và nói, chữ Nam cũng thuộc loại kiêng âm khá rộng rãi: Nam ® Nôm(= chữ hoặc tiếng nói của người nước Nam), Nam ®→ Nôm(= gió thổi từ phương Nam tới) vv...
- Tô:
+ Bia khắc ở bệ Phật Tam thế chùa xã Ngọc Đình, tổng Thủy Cam, huyện Từ Liêm (nay ngoại thành Hà Nội) năm Long Khánh thứ 3 (1375) đời Duệ Tông (No19582) ghi họ tên một tín chủ là Tô Nghĩa, tự thủ Phận Cư Sĩ với chữ Tô viết kiêng huý 蘇: bớt một nét cuối, thay bằng một vòng tròn nhỏ (ảnh 7) như kiểu chữ Thừa (Thặng) đã dẫn ở ảnh 1 và 2.
5. Một số chữ huý khác
Trong lời bình về chính sự dưới thời Minh Tông, Ngô Sỹ Liên cho biết Minh Tông “có một quyển sổ nhỏ biên những chữ huý không được nói đến, trao cho các hoàng tử và cung nhân”... “phàm kẻ thần hạ người nào cùng tên (với thân thuộc vua) tất đổi cho tên khác, như người tên là Độ đổi làm Sư Mạnh vì cùng tên với Thượng phụ {Trần Thủ Độ} tên là Tung thì đổi làm Thúc Cao, vì là cùng tên với Hưng Ninh vương (Trần Tung con trưởng của An Ninh Vương) (BK6,32b). Theo lời của họ Ngô, chúng ta được biết dưới thời Minh Tông (và có thể thời Anh Tông nữa) có một số chữ huý có phạm vi hẹp trong họ tông thất và các quân tại triều. Những chữ huý ấy tuy không đưa vào lệnh ban bố chính thức, nhưng kiêng không nói đến, đối với trường hợp trùng tên thì phải đổi.
IV. Vài nhận xét chung.
1. Lệ kiêng húy chữ viết ở nước ta chỉ bắt đầu từ đời Trần. Dưới thời Thái Tông. Thánh Tông và Thánh Tông chứ kiêng tên huý của vua là Thượng hoàng, có truy gia của ông nội Thái Tông là Trần Lý, Định lệ kiêng huý đời Trần chủ yếu ban định thời Anh Tông; trong 21 năm ở ngôi, ông vua này đã 6 lần xuống lệnh kiêng huý họ ngoại (cha mẹ của Hoàng hậu) là một đặc điểm riêng của định lệ kiêng huý đời Trần.
2. Quan khảo sát bi kí đời Trần còn lại, có thể thấy các định lệ kiêng huý đã được tuân thủ rộng khắp cả những nơi xa kinh kỳ (như: quán Thông Thánh ở Bạch Hạc; chùa Phúc Hưng ở Gia Viễn, Hà Nam Ninh chùa Thanh Mai ở Chí Linh Hải Hưng....; về ngữ âm cũng có những biến đổi phổ biến trong cách đọc (và nói) các chữ huý, như) Nguyệt ®ngoạt, Nam ® Nôm, Kiền→ càn và cả Thằng (Thặng) ® thừa nữa.
3. Đối với họ tên người, tên đất, tên gọi chức quan: đổi dùng chữ khác (như Lý - Nguyễn, Tung - Thúc Cao; Kiên Ni - Ma Ni; Ngự sử trung thừa - Ngự sử trung tán...). Những chữ huý khác khi gặp cần phải xử lý theo cách viết bớt nét (khuyết bút). ở vị trí bớt nét có khi khuyên một vòng nhỏ để đánh dấu (như ở chữ Thừa, chữ Tô): Đó là một kiểu kiêng huý đặc biệt Việt Nam, không thấy có lệ chứng trong các công trình sưu tập, nghiên cứu chữ huý của Trung Quốc(13). Và cũng chỉ riêng có ở đời Trần, không thấy kiểu viết kiêng huý như vậy ở đời Lê hoặc đời Nguyễn về sau. Nét viết bớt thường là nét cuối cùng, nhưng không nhất thiết chỉ bớt ở nét cuối cùng (như chữ Nam ở ảnh 6). Cá biệt cũng có chữ không bớt nét, khi viết chỉ cần chú ý thể hiện đủ để phân biệt với chữ bình thường (như chữ Nguyệt với hai nét ngang lửng, hoặc chữ Anh với nét ngang ở thân rất ngắn, không thòi đầu).
4. Ở đời Trần chưa có kiểu viết chữ huý bằng cách đảo vị trí các bộ phận chữ, hoặc thêm bộ ký hiệu 4 hay 3 nét gãy (巛,巡) như kiểu viết chữ huý thường thấy từ đời Lê về sau.
Văn bản thư tịch, bi ký đời Trần còn lại không mấy, tự liệu về các định lệ kiêng huý ở thời này cũng rất ít. Nhưng việc nghiên cứu chữ huý là cần thiết đối với công tác thực tiễn chúng tôi hi vọng rằng việc nhận diện các chữ huý và thể thức kiêng huý ở đời Trần, kể cả những chữ đã nói đến trong bài này và những chữ khác còn có khả năng phát hiện thêm, sẽ giúp chúng ta có căn cứ để giám định các văn bản, bi ký của thời kỳ này, nhất là đối với những trường hợp có nghi vấn về niên đại, hoặc điều ghi về niên đại chính xác bị mất thiếu, mờ mòn.
LÊ ĐỨC THỌ
CHÚ THÍCH
(1) Cột kinh phát hiện được ở cố đô Hoa Lư, hiện đã đem về trưng bày ở Viện Bảo tàng lịch sử, Hà Nội.
(2) Xem: Thơ văn Lý Trần, T.1, Nxb KHXH, 1972. Sách có in nguyên văn chữ Hán, nhưng vì in theo lối giản thể nên không tiện dùng cho việc nghiên cứu chữ húy.
(3) Bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư. Kỷ nhà Tràn ở tập II (Nxb KHXH, 1967). Để tiện việc nghiên cứu chữ húy, trong bài này chúng tôi có chú dẫn xuất xứ theo nguyên văn chữ Hán ở bản in năm Chính Hòa 18 (1697). Số trang tờ ở bản này cũng giống như ở bản A.3 Viện Nghiên cứu Hán Nôm BK5, BK6... là chữ viết tắt: phần Bản kỷ quyển 5, 6...
(4) Đây là trường hợp người viết suy từ lệ kiêng húy đương thời để viết kiêng húy của các vua triều trước, ở Trung Quốc cũng có những lệ chứng tương tự (Xem Trần Viên - Sử húy cử lệ. Bắc Kinh, Trung Hoa thư cục, 1962, tr. 80).
(5) Xem Trùng tu Quảng vận (bản in phỏng khắc theo bản đời Tống), Thượng Hải, Trung Hoa thư cục, Tập 2, tr. 34-35. Các từ điển đời sau như Khang Hi tự điển, Trung văn đại từ điển... đều có dẫn cách ghi âm của Quảng vận. Cũng xem: Đinh Thanh Phụ: Cổ kim tự âm đối chiếu thủ sách. Bắc Kinh, Khoa học xbx, 1958.
(6) Sự đặc thù không riêng với âm Thừa, mà nói rộng ra là cả vần ưa nữa: ở các vần khác, âm Hán Việt có khi thống kê được 15 - 25 trường hợp có ghép vần. Riêng vần ưa, ngoài chữ hứa (xuất phát từ vần Lữ) chỉ có 1 âm Thừa mà thôi. GS Nguyễn Tài Cẩn cũng nhận đó là một cách đọc hơi lạ, tuy về âm lý có thể giải thích được: Có thể nghĩ đến sự biến đổi theo tiền lệ đã có trong tiếng Việt như chả/chẳng: rụng phụ âm cuối ng, sau đó a ® ưa (như lả/lửa)... Cũng có khả năng biến đổi do phương ngữ tiếng Hán như B. Karlgren đã ghi trong Etudes sur la phonologie chinoise: một số nơi ở Sơn Tây, Cam Túc không có phụ âmng. Nếu theo nguồn đó vào Việt Nam thì âm Thằng (Thặng) cũng có thể không có phụ âm ng (Xin cám ơn GS Nguyễn Tài Cẩn đã giúp cho gợi ý quí báu - Tg.).
(7) Từ đời Lê Ngọa Triều (1006 - 1009) trở về sau tên gọi quan chức nước ta đại thể dựa theo quan chế đời Tống (Toàn thư, BK1, 27b).
(8) Toàn thư (BK5, 1a) còn ghi Thái Tông khi chưa lên ngôi có tên là Bồ (= cây cỏ bồ), nhưng chữ đó không thấy ghi trong các lệnh kiêng húy.
(9) Có cơ sở để đoán định truyền bản ANCL chép hoặc khắc in nhầm: tách chữ Mạnh (gồm 2 phần trên chữ thiên, dưới chữ Minh, thành 2 chữ Thiên Minh).
(10) Như nói phu nhân của Trần Quốc Tuấn là bà họ Lý con gái vua Lý Huệ Tông (?), hẳn là nhầm với bà Hiền Từ. Hoặc nói Thái Tông có người con gái thứ 3 (chị của An Tự Công chúa) hiệu là Sầm Quế (?), cóSầm lâu tập lưu hành ở đời. Đúng ra theo Toàn thư, cũng như Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn và Văn tịch chí của Phan Huy Chú, thì Sầm lâu tập là tập thơ của Uy Văn vương Trần Toại.
(11) Trong Lược truyện tác gia Việt Nam (in lần thứ 2, Nxb KHXH, 1971, T1, tr. 153) soạn giả ghi “Trần Thái Tông là con của Trần Thừa và bà Lê Thị Phong” có thể là nhầm do sử dụng tư liệu ở Trần gia ngọc phả.
(12) Xem Tăng Bá Hoành: Sưu tầm, bảo vệ, và khai thác nguồn tư liệu văn bản Hán Nôm ở Hải Hưng - Tập san Nghiên cứu Hán Nômsố 1, 19984, tr. 45.
(13) Xem: Lục Phí Trì: Lịch đại đế vương miếu thuỵ niên huý phả,soạn năm Càn Long ất Mùi (1775), Thượng Hải, Trung Hoa thư cục, hiệu san, không đề năm; và Trần Viên: Sử huý cử lệ, Bắc Kinh, Trung Hoa thư cục. 1962.