TÂN TRUYỀN KỲ LỤC VÀ PHẠM QUÝ THÍCH
TUEsday - 05/04/2016 10:37
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyền (1930 – 2003)
Khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, ở nước ta xuất hiện đồng thời một số tập truyện ký, mỗi tập gồm nhiều tiểu phẩm như Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ, Nguyễn án, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Lan trì kiến văn lục của Vũ Trinh, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích.
Hai cuốn đầu đã được dịch và công bố trọn vẹn từ lâu. Cuốn thứ ba đã được khai thác ít nhiều trên các tạp chí như Tạp chí Văn học số 3 năm 1983, Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1990. ở đây, chúng tôi xin bước đầu giới thiệu Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích.
Ông sinh ngày 25 - 12 - 1760, mất ngày 16 – 5 - 1825. Người xã Hoa Đường, huyện Đường An, nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Hưng. Cùng sinh trưởng vào thời Lê mạt, nhưng khác với ba tác giả trên chỉ đỗ đạt thấp hoặc giữ một chức vị khiêm tốn, Phạm Quý Thích đã đạt học vị Tiến sĩ năm 1779, quan đến Thiêm sai tri Công phiên. Khi Tây Sơn chiếm được Bắc Hà, ông bỏ trốn không chịu cộng tác. Năm 1802, với tư cách là cựu thần nhà Lê, ông và Vũ Trinh cùng được Gia Long gọi ra làm Thị trung học sĩ. Khác với Vũ Trinh tỏ ra tận tụy phục vụ tân triều, đã được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh, quan đến Tham tri Bộ Hình rồi vì vạ lây với cha con Nguyễn Văn Thành mà bị an trí cho đến hết đời ở Quảng Nam, Phạm Quý Thích chỉ nhận chức Đốc học, hai lần làm giám thị trường thi Nghệ An, Sơn Nam rồi tìm mọi cách cáo quan về dạy học ở ngay nơi cư ngụ là phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương, Hà Nội. Ông có nhiều học trò nổi tiếng như Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý.
Ông trước tác khá nhiều ở các lĩnh vực thơ, văn, sử. Cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác là hoài cổ, tiếc nuối nhà Lê. Tân truyền kỳ lục.(Ghi chép những chuyện lạ mới) mượn chuyện các con vật - như một kiểu chuyện ngụ ngôn để biểu lộ hoàn cảnh, tâm sự của tác giả, kiên quyết giữ vững phẩm cách, trung thành với chúa cũ, không chịu để lợi lộc mua chuộc mà bán rẻ lương tâm, đồng thời phê phán bọn cơ hội táng tận nhân phẩm, mưu cầu danh lợi.
Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay còn hai bản Tân truyền kỳ lụcchữ Hán, ký hiệu A.2315 và A.2190, đều gồm 2 truyện.
- Bần gia nghĩa khuyển truyện
(Truyện chó nghĩa nhà nghèo)
- Vũ trùng giắc thắng ký (Ve nhặng chọi nhau)
Bản sau mang ký hiệu A.2190, còn có thêm truyện Miêu khẩu đối thoại (chó mèo đấu khẩu) nhưng chưa trọn vẹn.
Dưới đây xin giới thiệu bản dịch của thiên truyện thứ nhất, nơi tác giả gửi gắm tâm sự một cách sâu sắc và thể hiện cũng công phu hơn.
Truyện chó nghĩa nhà nghèo
Triều Lê cũ còn sót lại người họ Đào, tên chữ là Cảnh Long, tên hiệu là Vân Hiên cư sĩ. Vốn dòng thi thư thuần túy, đức độ khoan hòa, tư chất thuần hậu, ít văn vẻ kiểu cách, trọng danh nghĩa, chuộng khí khái ông thực đáng là bậc vĩ nhân đất Bắc. Năm 20 tuổi du học ở Tràng An, ra sức cần cù đọc sách, nghiền ngẫm nghĩa lý tinh vi của thánh hiền. Đọc ngoại sử đến gương các bậc trung thần nghĩa sĩ, hiếu tử liệt phụ thì lại chắp tay thắp hương, kính cẩn như đối với thần minh. Về mặt trước tác, ông lại càng sở trường. Hễ đi qua những nơi danh lam, cổ miếu, đài cao, quán(1) đẹp, nếu gặp ngẫu hứng thì đều có đề vịnh, lời lẽ tinh luyện ngụ ý sâu xa, được người đương thời coi là bậc nhất.
Cuối đời Chiêu Thống, đất nước đại loạn. Quân Nam thừa thắng tiến ra, quân Thanh tan tác bỏ chạy, vua Lê theo lên phương Bắc. Chỉ một thời gian ngắn mà 13 đạo dân binh đã thuộc về Tù trưởng Tây Sơn. Đêm ấy, ông Đào thở ngắn than dài, trằn trọc suốt năm canh không ngủ. Đáng thương một triều đình đại ba trăm năm, từ đây non sông đều thay đổi. Vì thế, ông thả chí giang hồ, không chú ý gì đến sản nghiệp nữa. Lại thêm mấy năm mất mùa liền, liễu sân, hoa vườn chẳng mấy đã thay hình đổi sắc.
Song trong lúc cùng, ông càng vững chí, không vì nghèo quẫn mà bỏ chí tang bồng thuở trước. Ông đề vào bức bình phong ở chỗ nằm một bài tuyệt cú:
Thích thích chung tiêu mấn dục ban,
Tao gia bất tháo quốc đa gian.
Hà thời liễu thử nam như trái,
Tiêu khước u sầu nhất thốn đan
Dịch thơ:
Tao thức thâu đêm tóc trắng đầu,
Nước, nhà chìm đắm biết về đâu.
Bao giờ dứt nợ nam nhi ấy,
Cho tấc son trong dứt khối sầu.
Đề xong, nhìn lên trời thấy đôi chim nhạn chấp chới bay tới, ông lại đề bài Nhạn ngâm:
Vạn lý vân trình nhạn thử phi,
Bằng tha đạo ngã cố quân quy.
Giao Châu thượng hữu anh hùng tại,
Phấn dực trùng lại vị khả tri.
Dịch thơ:
Muôn dặm đường mây nhạn vút đi,
Nhờ tâu vua cũ liệu quay về.
Giao Châu vẫn có anh hùng đó,
Cánh lại tung trời cũng có khi.
Một hôm nhân thư rỗi đi chơi thành Thăng Long, qua Cửa Nam thấy các thắng cảnh triều cũ nhất nhất không còn như trước, trong lòng hoài cảm, nhân bút làm bài thơ:
Bài 1:
Thành trung cửu miếu thử đồi ly,
Cử mục sơn hà lệ mãn y.
Lao lạc kỷ tồn Chu chế độ,
Tinh chiên thậm dị Hán uy nghi.
Quy lai tằng thống Tân Đình ẩm,
Khảng khái không tồn cố quốc bi.
Hà hạnh thương thiên do quyến hựu,
Tảo tương thần kiếm tất thanh Di.
Dịch thơ:
Trong thành chín miếu sụp lung tung,
Khăn áo lệ đầm trạnh núi sông.
Đổ nát, đâu nền xưa chỉnh đốn,
Tanh hôi, khác vẻ trước uy phong.
Trở về nâng rượu Tân Đình khóc(2)
Khảng khái tan hồn cố quốc trông.
Mong mỏi cao xanh còn trợ giúp,
Kiếm thần sớm diệt lũ tàn hung.
Bài 2:
Tam bách niên lai vũ trụ xuân,
Thành trì kim dĩ thuộc tha nhân.
Du du vạn lý quân hà tại,
Trướng vọng Lam Sơn thức lệ tần.
Dịch thơ:
Xuân trải ba trăm đất nước nhà,
Thành trì nay đã thuộc người ta.
Vua đâu, muôn dặm xa đằng đẵng,
Buồn vọng Lam Sơn, gạt lệ sa.
Ông còn làm tiếp hơn một chục bài cùng một giọng điệu tâm tình như thế. Khái quát có thể thấy được cái ý chí sâu xa như trong bàiHạ tuyền, Phỉ phong(3)
Năm Bính Thìn 1796, vì việc chi dùng trong nhà không đủ, ông đi chơi An Phong, nghe địa phương có nhà họ Nguyễn đang cần thầy bảo học, liền vào xin nhận chân ấy. Chủ nhà thấy quần áo xoàng xĩnh y như kiểu người Thái Nguyên, trong lòng đã biết ông chỉ là kẻ hàn nho. Trong tay áo có một tập sử. Trong túi mấy cây bút cùn. Cái nghiên cổ đã cóc gặm, ngấn mực bạch phếch. Mấy tờ sách nát thì mọt ăn, nét chữ khó mà phân biệt. Chủ nhân thấy cung cách kém hèn như vậy cho nên đối xử cũng bạc bẽo, thu xếp cho ở một nhà tuềnh toàng, trả lương có ba quan.
Ông thản nhiên như thường, không vì bị bạc đãi mà xấu hổ. Sớm chiều chỉ ra vào chuyện trò với dăm sáu đứa học trò. Trước sau thường quanh quẩn giảng giải bốn năm quyển sách kim cổ. Hoặc đón gió mà ngâm thơ, đối trăng mà ca hát. ở tình cảnh bức bách thì hứng thơ lại càng khởi động. Ông đề trên vách nhà học một bài thơ luật:
Thập tải thư đăng lệ trác ma,
Hạp tương tảo tuế trạc nguy khoa.
Đại canh sở sự tam mân lộc,
Phủ dục nan dung sổ khẩu gia.
Khởi thị văn nhân kỳ ngộ thiểu,
Ức tương tài tử vãn thành đa.
Đỉnh chung tha nhật bằng thiên cấp,
Thường liễu niên tiền nhất tiểu oa.
Dịch thơ:
Mười năm đèn sách mấy chuyên cần
Khoa bảng sao không sớm lập thân.
Ê a bảo học, ba quan lĩnh,
Dạy dỗ nuôi nhà mấy khẩu ăn.
Văn nhân dường gặp ít may mắn,
Tài tử nên công hoặc muộn mằn.
Trời ví ngày nào trao vạc lớn,
Đền bù năm trước một nồi con.
Phàm những bài thơ tùy hứng hoặc thù tạc, ông đều đưa cả vào thi tập, ở đây khôg cần dẫn ra nữa.
Lại nói khi ông ngồi dạy học ở đó, có nuôi một con chó già để sớm chiều chơi đùa với nó. Đi đâu nó cũng đi theo. Khi ngồi thì nó đứng đợi. Ngay ở chỗ đông người nó cũng không chịu rời ông nửa bước. Ông thấy nó có nghĩa như thế nên lại càng cho ăn uống hậu hĩ và đặt tên cho nó là Hàn Lư. Ông thường đùa bảo nó:
- Ta đã nuôi nấng mày như thế này, mày có chịu vì tao mà dốc sức cho đến chết không?
Chó gật đầu, vẫy đuôi như có ý chấp nhận.
Mấy tháng sau, ông có việc phải về nhà. Nó cứ hùng hục vào vào ra ra trông coi nhà. Ngày thì đuổi gà, đuổi lợn. Đêm thì canh phòng trộm đạo. Lại thêm bọn trẻ cả quên không cho ăn, đến nỗi nó sủa không ra hơi nữa. ấp ấy có người nhà giàu họ Trương thấy thế động lòng thương đem cơm cho ăn. Vừa bước vào cửa bị nó sủa luôn. Người ấy trách:
- Hàn Lư ! Hàn Lư ! Tao thương mày đói lâu nên đem cơm cho mày ăn. Tao có phải là phường bất nhân đâu. Mày tuy là loài vật nhưng còn có chút lòng, sao lại lấy oán báo ân vậy?
Nói chưa dứt, chó đã nhe nanh, giương móng, cất thành tiếng người, đáp lại:
- Ông có phải là chủ tôi đâu, sao lại có thể cho tôi ăn được? Há ông không nghe người ta nói: ban đêm đột nhập vào nhà, không phải trộm đạo cũng là tà dâm. Đúng, ông không phải là phường bất nhân. Nhưng tôi, tôi sủa kẻ không phải là chủ.
Người nhà giàu thấy nó linh dị như vậy thì tóc lông dựng đứng, giả vờ trách nó về tội đã phạm đến mình, để xem ý tứ nó ra sao. Nó đáp:
- Ngày đi, ông chủ ủy cho tôi chuyên trách coi sóc cửa nhà, bảo vệ gia đình, trông nom trẻ nhỏ. Cấm đoán lũ xấu, ngăn chặn kẻ gian, đó là trách nhiệm của tôi. Ông vào nhà đột ngột lúc không có chủ tôi, có lỡ bị cắn thì về lý có hề hấn gì. Sao ông lại kết tội nặng vậy?
Người nhà giàu thấy chó đối đáp có lý, nghĩ bụng đó là con vật kỳ lạ, có ý muốn lôi kéo nó, mới từ từ nói rằng:
- Mày có linh tính ắt biết điều phải trái. Vì thế ta bảo cho mày hay: chủ mày là hàn nho trong làng, lại gặp buổi thời thế không thuận. Cửa Vũ lâu ách tắc, vuốt rồng khôn cách đạt đường mây(4); cung Nguyệt vẫn xa xôi, thiềm thừ vô duyên bẻ cành quế(5). Tự cấy cày sao bằng lão nông kỳ cựu; nói tài lợi đâu được bằng kẻ phú thương. Ngõ hẻm nương thân, sinh nhai đủ nuôi vài khẩu; tính kế dạy học, học trò chỉ được bốn tên. Lương hạn ba quan, cả nhà phải xẻn; gạo dè nửa đấu, chẳng bữa nào thừa. Mèo già lẻn bếp cũng uổng công; chuột chù khoét tường đành tưng hửng. Chủ còn chẳng đủ, huống hồ là mày. Nay tao bày cho mày, chi bằng tránh tối tìm sáng, bỏ nghèo theo giàu, mưu cầu đủ đầy, một đời sung sướng, để thoát khỏi cảnh tự khổ, có hơn không?
Chó đáp:
- Ôi ! Ông cũng là người mà sao lại nói những lời như thế ? Phàm kẻ sĩ trung nghĩa không vì thế cùng mà đổi thay chí khí. Cho nên trời rét mới biết thông cao cứng cỏi, gió mạnh mới hay cỏ đứng vững vàng. Loài vật tuy khác giống người, song cũng có thiên chân(6): năm tính trong lòng, bốn mối đầy đủ(7). Vì vậy Voi của Minh Hoàng chẳng lạy Lộc Sơn, vượn của Đức Tông giận đánh Chu Thử(8). Ngựa Xích Thố của Vân Trường không chịu ràng buộc ở Kiến Nghiệp; ngựa Ô Truy của Tây Sở không vui nuôi dưỡng ở Giang Đông(9). Đó đều là vì chủ thủ tiết, không vì chủ nghèo hay giàu, cùng hay đạt mà hai lòng vậy. Nếu như ông chủ tôi xuân thu thịnh vượng, hạnh nghĩa được thời, thì với đầu óc cao rộng, trí lự thông minh, đem đạo lớn uẩn súc ra thi hành, ắt nên giàu có, đâu mãi chịu nghèo hèn. Lúc ấy việc tuyển hiền, đãi sĩ trở lại như thường thì người có chí có đạo, sẵn nghiệp Thi, Thư há còn phải nhờ vào cày cuốc. Còn bây giờ, theo lời thầy Mạnh, lấy nhân nghĩa trị xử, hà tất nói đến lợi. Cứ yên nghèo vui đạo như Nhan Hồi(10) thì ẩn dật ngõ hẻm có nề chi, hy vọng theo vết nhàn ông Mã(11) thì lấy bút thay cày cũng chẳng hại. Ba quan lương cấp là (xem tiếp theo trang sau) nhiều so với của phi nghĩa. Nửa đấu thanh bần vẫn hơn gạo phải khom lưng(12). Nhân thấu đến rắn, lợn thì mèo kia là vật gì mà dám ăn vụng. Tín xử với gà, cá thì chuột xù tuy da dầy cũng có thể cảm hóa. Lòng giữ được ngay thẳng, thuật chọn được sáng suốt, trung đối với vua, tín đối với bạn, hiếu đối với cha mẹ, hòa thuận với họ hàng, thực sự là người cực tốt thì trời sẽ trao cho trách nhiệm nặng nề, để cho phải chịu đói nghèo là nhằm tôi luyện nên ngọc quý. Vậy sao lại có thể đem điều nông nổi luận bàn? Điều ông nói thật là sai trái, tôi tha thứ cho ông. Nếu không thì miệng tôi đang chịu mệnh, cắn ông lần nữa thì có hề chi ? Ông hãy sớm về đi, kẻo sau lại hối.
Người nhà giàu nghe xong mà sững sờ, hiểu rằng không thể lay chuyển được nghĩa khí con chó, đành mang cơm quay ra, than thở:
- Loài vật cố nhiên không thiêng bằng người. Nhưng lại có người không bằng vật ư ?
Liền làm bài thơ Đường để ghi lại việc ấy:
Thụ ủy chuyên tư trách phỉ khinh,
Nhất môn tỏa thược cảm vong tình.
Nộ xung bạo khách ninh tri tử,
Lực hãn cô thành bất vấn sinh.
Môi nhĩ nan mi tiêu kính tiết,
Trảo nha tài khí tráng uy thanh.
Trượng phu đương quốc năng như thị,
Hà chí Huy(13), Khâm khổ Bắc hành.
Dịch thơ:
Được trao trọng trách dám coi khinh,
Nhà cửa trông nom nguyện hết mình.
Thí mạng thỏa hờn xông trộm đạo,
Liều thân đem sức giữ cô thành.
Tiết danh khôn nhử bằng mồi bả,
Uy vũ lừng vang thử vuốt nanh.
Coi nước, trượng phu mà được thế,
Vua ta chi đến phải lênh đênh.
Mấy ngày sau ông Đào trở lại. Con chó ra cửa đón tiếp, khôn xiết buồn thương. Người hàng xóm thuật lại chuyện đã xảy ra. Ông than thở mãi không thôi khẩu chiếm một bài tứ tuyệt:
Nhân, vật tuy thù loại
Thiên chân nhất lý đồng,
Nhất môn tụy trung nghĩa,
Thiên cổ thực thanh phong.
Dịch thơ:
Người và vật khác giống,
Cũng tính trời như nhau,
Trung nghĩa một nhà trọn,
Rực gương muôn thuở sau.
Ngâm rồi, soát xét lại thư phòng thì then khóa, đồ đạc vẫn y nguyên như cũ. Đó đều là do công sức trông nom, gìn giữ của con chó.
Than ôi! Chó là loài vật có lông, còn biết lấy tình nghĩa thờ chủ. Tuy những lời dụ dỗ mật đường vẫn không chuyển được ruột gan sắt đá. Kẻ ăn lộc vua nếu biết đem lòng dạ ấy để báo nước, để chống địch thì địch nào chẳng tan, thành nào chẳng vững, nước nhà sẽ nhờ đó mà củng cố lâu dài. Như thế thì làm gì có cái hận vua Huy, vua Khâm phải ruổi xe lên Bắc. Than ôi ! Sao mà thói đời đa đoan, lòng người thay đổi. Trong lúc nước nhà yên vui thì xu nịnh để cầu ân sủng, đến khi cảnh đời loạn lạc thì thoắt đã đổi mặt thay lòng. Bán nước cầu sống thừa, theo thời để chiếm lộc, sao mà vô liêm sỉ quá thế! Cho nên ta nói rằng: đời nhiều người không bằng con Hàn Lư vậy!
Nhân đó viết thành chuyện để làm răn.
Nguyễn Văn Huyền
---
Chú thích:
(1) Quán: nơi thờ thần tiên của những người theo Đạo giáo.
(2) Nhà Tấn mất nước, các danh sĩ thường tụ tập nhau ở Tân Đình (còn gọi là Lao Lao Đình) uống rượu thương khóc hoài vọng nhà Tấn.
(3) Xem trang sau.
- Hạ tuyền: tên một bài thơ trong Kinh Thi (Tào phong) nói về việc người đất Tào ghét Cộng Công xâm lược, kẻ hạ dân không nơi nương tựa, vừa lo lắng vừa mong chờ có bậc minh vương, hiền bá cứu đỡ.
- Phỉ phong: tên một bài thơ khác trong Kinh Thi (Cốc phong) nói về các bầy tôi đất Cối thương cho đạo nhà Chu không thể phục hưng được đất nước.
Đây ngụ cái ý của tác giả: ghét Tây Sơn, thương nhà Lê, mong chờ có minh chúa.
(4) Theo điển cá chép vượt cửa Vũ hóa rồng, nói về thi cử thành đạt.
(5) “Thiềm thừ” là con cóc. “Cung Nguyệt” hay “Cung Thiềm” đều chỉ cung trăng. Bẻ cành quế cung Thiềm cũng nói về thi cử đỗ đạt.
Cả hai câu này cùng có ý: ông họ Đào gặp thời buổi loạn lạc, không có điều kiện tiến thân.
(6) Tức Thiên tính, tính do trời phú.
(7) Năm tính: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Bốn mối: hiếu, đễ, trung, tín.
(8) An Lộc Sơn phản lại Đường Minh Hoàng (tức Đường Huyền Tông). Chu thử phản lại Đường Đức Tông. Các con vật cũng không tuân phục, chống lại kẻ phản loạn.
(9) Ngựa Xích Thố của Quan Vân Trường (tức Quan Vũ). Ngựa Ô Truy của Tây Sở bá vương (tức Hạng Vũ). Con thì theo chủ không chấp nhận sự chiêu hàng của Tào Tháo, bỏ Kiến Nghiệp (nơi Tào đóng) về với Lưu Bị; con thì theo chủ rời đất Giang Đông (nơi dấy nghiệp của Hạng Vũ) tung hoành chiến trận khắp nơi. Hai con đều là ngựa hay, tận tuỵ với chủ.
(10) Một học trò giỏi của Khổng Tử.
(11) Chỉ Mã Dung, người thời An Đế, Hoàn Đế nhà Đông Hán (Trung Quốc). Ông nổi tiếng học rộng, tài cao, đã từng giữ chức Hiệp thư lang, Nghị lang, Thái thú Nam quận; chú giải nhiều sách Kinh, Truyện; học trò theo học có đến hàng nghìn.
(12) Nhắc lại ý Đào Tiềm khi cương quyết cáo quan về ở ẩn: ta há lại vì ba đấu gạo lương mà phải khom lưng uốn gối.
(13) Huy, Khâm tức vua Huy Tông, Khâm Tông nhà Tống bị giặc Kim bắt đưa lên phương Bắc. Đây ám chỉ việc Lê Chiêu Thống chạy theo quân Thanh sang Trung Quốc.