SỨ TRÌNH TIỆN LÃM KHÚC - TÁC PHẨM THƠ CHỮ NÔM CỦA LÝ VĂN PHỨC

Bài viết của Dương Thị The


Theo Lý thị gia phả và Tự thuật ký do Lý Văn Phức soạn thì tổ tiên Lý Văn Phức là người Trung Quốc, vì lánh nạn, sang Việt Nam ngụ cư tại làng Hồ Khẩu, sang Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Ba Đình, Hà Nội). Từ đó về sau con cháu trở thành người Việt.
Lý Văn Phức tự Lân Chi, hiệu Khắc Trai, sinh ngày 1 tháng 10 năm Ất Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 46 (1785). Năm Gia Long thứ 18 (1819), ông đỗ cử nhân và được bổ nhận Hàm Lâm biên tu, rồi lên Lễ bộ Thiêm sự, đến Hộ Bộ Hữu thị lang, thự Hữu tham tri, vì mắc tội bị cách chức. Sau đó lại làm Nội vụ phủ tư vụ, lên Binh Bộ chủ sự, thự Công Bộ Hữu Tham tri. Được đặc cách bổ làm lễ Bộ Hữu tham tri, sung chức Chánh sứ, đi Yên Kinh Bắc kinh. Sau lại bị phạt nhưng ngay sau đó lại được thăng làm Quang lộc tự khanh. Năm 1849, sau chuyến đi Tân Gia Ba về, ông bị ốm rồi mất, hưởng thọ 64 tuổi.
Lý Văn Phức viết nhiều tác phẩm bằng chữ Hán như: Tây hành ký; Mân hành tập vịnh; Tiên thành lữ thoại; Việt hành thi thảo; Việt hành tục ngâm; Kinh hải tục ngâm; Chu nguyên tạp vịnh; v.v... Ông cũng viết nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm, đặc biệt là thơ. Nổi tiếng là Nhị thập tứ hiếu diễn âm, rồi đến Sứ trình tiện lãm khúc; Tự thuật ký; Phụ châm tiện lãm; Bất phong lưu truyện; Chu hồi trở phong thán…
Do khuôn khổ bài viết, ở đây chúng tôi chỉ xin giới thiệu một tác phẩm thơ bằng chữ Nôm do ông sáng tác, bị lược chuyện các tác giả Việt Nam(1) bỏ sót. Hơn nữa, tác phẩm này cũng chưa hề được công bố. Đó là Sứ trình tiện lãm khúc.
Hiện nay, tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn giữ được 3 văn bản Sứ trình tiện lãm khúc:
- Bản thứ nhất ký hiệu AB.400, sách chép tay, 24 tờ, khổ 30x17cm. Không có tựa, không ghi niên đại sáng tác, nhưng có ghi tên tác giả “Lý Văn Phức Lân Chi soạn”. Văn bản bao gồm 616 câu thơ Nôm song thất lục bát.
- Bản thứ hai ký hiệu AB.274. Sách chép tay, 24 tờ, khổ 30x27cm. Không có tựa và niên đại sáng tác, nhưng có tên tác giả “Lý Văn Phức Lan chi soạn”. Văn bản này gồm 612 câu thơ Nôm song thất lục bát.
- Bản thứ ba đóng gộp vào sách Hồi kinh nhật trình. Sách chép tay, chữ đẹp, ký hiệu VNv.217, khổ 24x 15cm. Có ghi tên tác giả và năm sáng tác ở cuối bài tựa: “Chánh sứ Lý Văn Phức Lân Chi trứ” (Chánh sứ Lý Văn Phức Lân Chi soạn). “Thiệu Trị nhân niên, xuân nguyệt chi thư” (Viết năm Thiệu Trị thứ hai, tháng xuân (1841)). Nội dung bài tựa nêu lý do, xuất xứ của tác phẩm. Sứ trình tiện lãm khúc: “Lúc đi sứ Yên Kinh, ghi chép đầy đủ các việc lớn nhỏ cùng phong cảnh trên đường. Khi về rảnh rỗi thâu tóm hết thảy, diễn thành thơ Nôm…”. Có lẽ vì vậy tác phẩm có tên Sứ trình tiện lãm khúc (khúc ngâm cuộc hành trình đi sứ để tiện xem).
Qua các bài nêu trên, cùng nội dung bài tựa, ta thấy Sứ trình tiện lãm khúc là tác phẩm Lý Văn Phức sáng tác sau chuyến đi Yên Kinh do ông làm Chánh sứ.
Đối chiếu so sánh cả ba văn bản Sứ trình tiện lãm khúc nêu trên, ta thấy bản mang ký hiệu VNv.217 có nhiều yếu tố gần với nguyên tác hơn. Do vậy, chúng tôi đã chọn bản VNv.217 làm bản nền cho việc phiên âm, chú thích tác phẩm.
Sứ trình tiện lãm khúc (Viết tắt là STTLK) gồm 620 câu thơ Nôm, song thất lục bát, do Lý Văn Phức sáng tác năm 1841. Tác phẩm phác họa cho chúng ta một bức tranh tuyệt đẹp và đa dạng về cảnh vật thiên nhiên, núi sông, cây cỏ, v.v… trên đường đi sứ mà tác giả được mắt thấy tai nghe:
Dòng sông khúc thẳng khúc quanh,
Sóng êm hò lái gió thanh đưa buồm,
Núi ai nhuộm đỏ lòm sắc đá,
Đủ trống cờ nhân mã binh đao,
Sườn non ai vẽ được nào,
Truyền rằng binh mã Hoàng Sào phải không.

STTLK giới thiệu được khoảng trên 100 di tích có giá trị, liên quan đến nhiều nhân vật lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc trên suốt chặng đường dài 8000 dặm từ Hà Nội tới Yên Kinh. Thí dụ:
Tam Thanh động thiên thành như tạc,
Vọng phu sơn ai tạc cho nên,
Hãy còn dấu cũ tiên hiền,
Nền dinh Lộc Mã, cảnh chiều Nhị Thanh

Đáng chú ý là STTLK giới thiệu một cách tỉ mỉ nghi thức bang giao đương thời giữa Trung Quốc với Việt Nam từ cách xưng hô, nghi lễ đón tiễn; đến các hình thức, chế độ đón tiếp sứ thần…
STTLK còn cho biết một số tập tục của nhân dân ở nhiều địa phương mà tác giả đi qua.
Với khả năng sử dụng tiếng Việt thành thạo, tài làm thơ điêu luyện, cách quan sát cảnh vật sắc sảo, tinh tế, Lý Văn Phức đã thực hiện thành công ý đồ thuật lại chọn vẹn chuyến đi sứ dài 8000 dặm với thời gian một năm của đoàn sứ bộ Việt Nam do tác giả làm chánh sứ năm Thiệu Trị thứ nhất (1840).
Dưới đây chúng tôi xin trích giới thiệu một số đoạn tiêu biểu của tác phẩm trường thi Sứ trình tiện lãm khúc để bạn đọc phần nào hình dung được giá trị của nó(*).
1Năm Thiệu Trị rồng bay Tân Sửu(2),
1Vâng thánh triều giữ đạo giao lân(3);
1Điện phong ban xuống chiếu văn,
1Hành tùy mười bảy sứ thần ba viên.

15. Đồ thưởng tứ Ơn trên nhuận thấm,
1Lãnh quốc thư vật phẩm chỉnh tề;
1Tháng hai lĩnh mệnh đan trì(4),
1Gió xuân đưa bước vó kỳ nhẹ thênh.
1(………………)

145. Rồi chỉnh bái(5) quan binh thượng lộ(6)
1Qua Kỳ Cùng với phố Kỳ Lừa;
1Đồng Đăng lịch sự tiếng xưa,
1Dừng xe tạm yết đưa tờ thông danh(7).
1Rồi thấy thiếp Thái Bình Tri phủ,

150. Định mồng mười giờ Ngọ(8) khai quan(9)
1Tỉnh quan cùng Hầu mệnh quan,
1Cùng nhau võng giá một đoàn tới nơi.
1Sửa áo mão bên đài Ngưỡng Đức,
1Sắp quân ra Nam Bắc hai đường;

155. Đến giờ súng phát rầm vang(10*),
1Mặt giao tân chủ lệ thường tòng nghênh.
1Đài Chiêu Đức(11*) lễ thành tham yết,
1Cửa Nam Quan bái biệt phân chia;
1Tang bồng là chí nam nhi(12*),
 
160. Non sông ngoảnh lại bước đi lại bước đi lại dừng.
1Qua Tiền Ải(15*), trông chừng Mộ Phù(16*),
1Cõi Tân Thiêm(17*) tới Thụ Hàng Thành(18*);
1Đến đâu đường tấn(19*) quỳ nghênh,
1Thường ngày cung ứng nặng tình địa phương(20*).
 
165. Ninh Minh giang(21*) trực thuyền đi thủy,
1Vật thường hành chỉnh bị chu toàn(22*);
1Hiệu cờ cho đến hiệu đèn,
1Khắp trong mười bảy chiếc thuyền sắm tân(23*).
1Lại biện lễ giang thần đảo cát(24*),
 
170. Rồi treo cờ phát hiệu khai hành(25*);
1Dòng sông khúc thẳng khúc quanh,
1Sóng êm hò lái, gió thanh đưa buồm.
1Núi ai nhuộm đỏ lòm sắc đá,
1Đủ trống, cờ, nhân mã, binh đao;
 
175. Sườn non ai vẽ được nào,
1Truyền rằng “Binh mã Hoàng Sào(26*) phải không?
1Kìa Sa mão, nọ chồng bút giá(27*),
1Khéo khen ai sắp đá nên xinh;
1Bên sông ba mặt quanh thành,
 
180. Nhìn xem phủ trị Thái Bình rất đông.
1Đưa một lá thiếp hồng(28*) vấn hảo,
1Mật thổ ngơi, lấy thảo đem thành(29);
1Một niềm bái tạ ninh ninh,
1Tống đồ thực vật vẹn tình chủ nhân(30).
1(…………………)
1Non Bạch Thạch động Thiên Song viễn,
1Quế Kinh Sơn thổ sản gọi là;
 
1115. Huyện Nam Bình cách chẳng xa,
1Tướng quân Đào Khản(31) quê nhà ở đây.
1Đời Nam Hán nhớ thày Lương trạng,
1Thân miếu đường về dưỡng từ thân;
1Lộc triều tha thuế phương dân,
 
1120. Miếu thờ một quận cảm ơn đến rày.
1(…………………)
 
1125. Nhớ Đông Hán Sĩ Vương(32) sự cũ,
1Nhậm Nam Giao Thái thú quan ngoài;
1Văn minh mở một phương trời,
1Một phen công đức muôn đời khói hương.
1(…………………)
 
1240. Nào non Hồi Nhạn là đâu(33*)
1 Bẩy mươi hai đỉnh, ấy đầu Hành Sơn(34*)
1Núi Thạch Cổ(35) trên ngàn giang khẩu,
1Ngọc Long(36) xưa còn dấu cổ cư;
1Đời Đường mới cải Viện thư,
 
1245. Lịch triều nhân đó để thờ tiên nho(37*)
1Bà Xiếu Mẫu(38) nhớ xưa đời Hán,
1Còn miếu thờ “Nhất phạn thiên kim”(39)
1Giang đình tiên động trải xem,
1Tới Hành Sơn huyện lại tìm tích xưa.
 
1250. Chốn Lý Bí đọc thư thuở trước(40),
1Đỉnh Yên Hà như gác như am;
1Lại đi khỏi huyện Tương Đàm,
1Đến Trường Sa phủ, Hồ Nam tỉnh thành.
1Miếu Giả Nghị bên kênh Tương Thủy,
 
1255. Đường Độc Tinh(41*) xót kẻ Hoài sa(42)
1Dòng Tương chảy xuống Mịch La(43)
1Nước xanh lai láng bóng tà đìu hiu.
1(……………………)
1Nghe khói bắc đường tan khí lạnh,
1Ngắm non nam như ngảnh mặt cười;
1Gặp ngày mười một tháng hai,
1Ninh Minh đây đã đến nơi Châu Thành.
 
1605. Rũ mùi tuyết cuốn thênh rèm võng,
1Phất hơi sương thẳng chống ngọn cờ;
1Đến đài Chiêu Đức chốn xưa,
1Khấn quỳ là lễ, tiễn đưa là tình.
1Trà biệt thoại rót, dừng xa mã,
 
1610. Súng hỉ âm mở khóa quan san;
1Cách xuân hợp mặt y quan,
1Đường xuân phơi phới, một đoàn thênh thênh.
1Vâng đại giá ngự thành Hà Tỉnh,
1Thảm quy yên phụng mệnh đan trì;
 
1615. Sức mình hèn mọn có chi,
1Việc nên, muôn đội đức uy chín lần.
1Giọt vũ lộ(44) nay nhuần mai thấm,
1Thú ban du trong ấm ngoài êm;
1Tung hô ba tiếng trước thềm,
 
1620. Đài xuân vui vẻ, âu kim bình vàng.

CHÚ THÍCH
(1) Lược truyện các tác giả Việt Nam, Nxb. KHXH tái bản năm 1917, mục 485. Lý Văn Phức, tr.390.
(2) Rồng bay: Kinh dịch có câu “Phi long tại thiên, đại nhân tạo dã” (rồng bay ở trên trời, là bậc đại nhân được sinh ra). Đây ý nói việc vua lên ngôi. Rồng bay Tân Sửu tức năm Tân Sửu (1841), năm vua Thiên Trị lên ngôi.
(3) Giữ đạo giao lân: Giữ đạo giao hảo xóm giềng.
(4) Đàn trì: Thềm son. “Mệnh đan trì” tức mệnh nhà vua.
(5) Chính bái: Nghiêm chỉnh bái tạ.
(6) Thượng lộ: Lên đường.
(7) Tờ thông danh: Tờ ghi tên cho đi lại.
(8) Giờ Ngọ: Từ 11h đến 13h trưa.
(9) Khai quan: Mở cửa biên giới.
(10) Lệ đón sứ thần: Khi mở cửa khẩu, quân hai bên phải chỉnh tề đội ngũ. Rồi bắn pháo chào mừng .
Từ đây trở xuống các chú thích có dấu (*) là của nguyên tác.
( 1*) Đài Chiêu Đức ở phía Bắc của khẩu.
( 2*) Tang bồng là chí nam nhi: “tang”: cây dâu; “bồng” là cây cỏ bồng. Đời xưa dùng cây dâu làm cung; cỏ bồng làm tên. Cung tên là chỉ việc của con trai. Đây nói chí nam nhi là chí tung hoành cung kiếm.
( 3*) Tiền Ải: Tên đường.
( 4*) Mộ phủ: Tên công quán.
( 5*) Tân Thiêm: Tên đường.
( 6*) Thụ Hàng Thành: Tên công quán.
( 7*) Đường tấn: Ở Trung Quốc trong đất liền có lệ cứ 15 hoặc 20 dặm đặt một đường hoặc một tấn, hễ thấy sứ thần đi qua, phải bắn pháo, gõ la, quỳ đón.
( 8*) Công quán theo lệ, phải tiếp đoàn sứ thần 3 bữa ăn trong ngày.
( 9*) Ninh Minh giang: Sông Ninh Minh.
(20*) Ý nói các địa phương có đoàn đi qua đều phải tiếp đón thật chu đáo.
(2 *) 17 thuyền sắm tân: Gồm thuyền sứ 7, thuyền trường 8, và thuyền thông sự 2.
(22*) Biện lễ giang thần: Tế thần sông. Đảo cát: lễ cầu may. Lễ vật do địa phương lo.
(23*) Phát hiệu khai hành: Phát hiệu lệnh bắt đầu đi.
(24*) Binh Mã Hoàng Sào: Tức Hoàng Sào Binh Mã, tên ngọn núi.
(25*) Sa mão, bút giá: Hình núi giống như chiếc mũ, gác bút.
(26*) Lá thiếp hồng: Thiếp bằng giấy hồng. Trên thiếp ghi họ tên bồi thần.
(27) Lấy thảo đem thành: Lấy lòng thảo lòng thành.
(28) Ý nói phải đón tiếp chu đáo để chọn vẹn tình nghĩa của phía chủ nhà.
(29) Đào Khản: Đời người Tấn, được người đương thời coi như Khổng Minh.
(30) Sĩ Vương: Tức Sĩ Nhiếp, người Đông Hán, từng làm thái thú quận Giao Chỉ.
(3 *) Hồi Nhạn: Tên ngọn núi đầu tiên trong 72 ngọn núi ở Hành Sơn.
(32*) Hành Sơn: tên huyện.
(33) Tên núi, tại tỉnh Hồ Nam.
(34) Ngọa Long chỉ Chư Cát Khổng Minh (Gia Cát lượng).
(35*) Tiên nho: Chỉ các vị Chu Tử, Hàn Tử, Châu Tử và Hoàng Tử.
(36) Bà Xiếu Mẫu: Người giúp Hàn Tín lúc còn hàn vi.
(37) “Nhất phạn thiên kim”: “bát cơm ngàn vàng”, tích Hán Tín người thời Hán, lúc còn hàn vi, được bà Xiếu Mẫu cho ăn bát cơm. Khi Hàn Tín thành đạt vẫn nhớ ơn bà, trả bà ngàn lượng vàng.
(38) Tức thư viện Hành Sơn.
(39*) Độc Tinh: Tên nhà thơ Khuất Nguyên.
(40) Hoài sa: Tên một tác phẩm trong Cửu chương (Sở tử của Khuất Nguyên.
(41) Mịch La: Tên sông, nơi Khuất Nguyên trầm mình.
(42) Vũ lộ: mưa móc. Đây ý nói ơn trạch.
1

TB

SỰ TÍCH THÁNH TẢN VIÊN DIỄN CA
<p class="MsoNormal" align="right" '="" style="text-align: right;">NGUYỄN ĐĂNGSự tích thánh Tản Viên là một truyền thuyết dân gian của ta có tự lâu đời. Đặc biệt là truyền thuyết này được cố định trên văn bản cũng rất sớm. Ngay từ đời Trần, Lý Tế Xuyên đã đưa vào trong sáchViệt điện u linh tập. Trần Thế Pháp và Kiều Phú cũng chép trongLĩnh Nam chích quái. Đến Ngô Sĩ Liên lại ghi vào Đại Việt sử ký toàn thư (phần Ngoại kỷ). Từ đó về sau thường thấy sao chép truyền thuyết này. Như Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú),Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam quốc sử diễn ca… và các sách truyện ký, dã sử, giai thoại. Trong dân gian Việt Nam, thánh Tản Viên được coi là một trong bốn vị thánh bất tử(1), của nước Nam. Ở nhiều địa phương đã tôn thờ thánh Tản làm Thành hoàng làng và lập miếu thờ phụng rất uy nghi. Chỉ tính riêng mấy tỉnh phía Bắc như: Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Tây, Thanh Hóa,… đã có 292 nơi thờ. Mỗi làng đều có ngọc phả riêng, ngoài những điểm chung về hành trạng, ở mỗi bản ngọc phả còn có đoạn giải thích rõ lý do thờ cúng và nghi lễ cúng tế. Trong số các sách và số ngọc phả kể trên, tuyệt đại đa số được biên soạn bằng Hán văn. Thỉnh thoảng mới tìm thấy một bản ngọc phả chép câu đối Nôm hoặc bài thơ Nôm. Trong một chuyến đi thực tế về xã Vật Lại, huyện Ba Vì (nay thuộc tỉnh Hà Tây), chúng tôi phát hiện ra một bản ngọc phả thánh Tản Viên chép bằng chữ Nôm, diễn ca theo lối thơ lục bát (từ đây trở xuống gọi làBản diễn ca). Bản diễn ca dày 16 trang, gồm 466 câu lục bát.
Đây là một Bản diễn ca thần tích khá cổ, chưa rõ tác giả là ai? Thể thơ lục bát dùng trong văn bản khá cổ kính, rất gần với thể thơ trong Thiên nam ngữ lục, Thiên nam minh giám,… Trong văn bản không chỉ dùng nhiều từ Hán Việt, mà còn dùng nhiều từ cổ, như: Thừa lưa, chỉn, hối, ở ca, v.v… Từ “Song viết” cũng thấy xuất hiện một lần ở câu:
Sơn hào song viết thừa lưa, 
Thói quen nên kẻ tiều phu trí mầu. 
(Câu 31, 32)

Đặc biệt chữ “viết” có dùng dấu nháy.
Về nội dung truyền thuyết, cơ bản giống với các bản ngọc phả thánh Tản Viên khác. Nhưng cũng có một vài chi tiết hơi khác. Chẳng hạn Bản diễn ca cho rằng Thủy Tinh đối đầu với Sơn Tinh, cũng vẫn là Hoàng tử con vua Thủy Tề được Sơn Tinh cứu nạn ngày trước. Sau này khi đánh nhau, Sơn Tinh giải thích:
Chàng đà ra dạ tương tranh,
Cho nên lỗi đạo đệ huynh chăng hòa.
 
(Câu 393 - 394)

Hoặc đoạn chép việc các loài thủy tộc bắt nhầm phải mẹ đức thánh Chèm (chỉ Lý Ông Trọng), nên bị đức thánh Chèm trừng trị:
Hội đồng cá rắn biên giang
Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay.
Trả ơn thân mẫu khi nay
Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng.
 
(Câu 431 - 434)

Như trên đã nhắc tới, Bản diễn ca còn dùng nhiều từ Hán Việt và từ cổ, hơn nữa có một số đoạn câu thơ chưa được chải chuốt. Nhưng nhìn chung, có thể ghi nhận đây là một bản diễn ca lịch sử có giá trị. Tuy chưa xác định rõ niên đại, song qua phân tích trên, có thể đoán định Bản diễn ca được biên soạn vào cuối đời Lê. Cùng với Thiên nam ngữ lục, Thiên Nam minh giám,…Bản diễn ca cũng cung cấp thêm một số tư liệu quý. Do vậy nó xứng đáng được đông đảo bạn đọc và những ai quan tâm đến lịch sử nước nhà biết đến.
Toàn văn Bản diễn ca như sau:
TẢN VIÊN SƠN TRUYỆN CỔ TÍCH

1Trước bày Đại Việt Hùng Vương
1Dân an đệm chiếu bốn phương thuận hòa.
1Đâu đâu hát thái bình ca
1Phong đăng bách cốc(2) nhà nhà đủ no.
15. Có người là con học trò
1Tên là Nguyễn Tuấn thế lo làm tày.
1Phòng văn án tuyết(3) đêm ngày
1Gạo châu củi quế(4) thiếu rày lấy đâu.
1Đọa tài khắp một tay thâu
110. Sớm lo chẳng đủ lấy đâu ngày dùng.
1Tuổi vừa được chốn xuân nồng
1Thất gia chưa có dụng phòng chốn nao.
1Lên chơi rừng quế nguồn đào
1Giang sơn chốn chốn thấp cao mọi ngàn.
115. Chim kêu vượn hót làm đàn
1Có nơi là Tản Viên Sơn hiệu lành.
1Bốn bề non nước cực thiêng
1Dẫu có thụy khí anh linh lạ thường
1Cảnh thanh kì lạ khác thường
120. Non nhân nước trí bốn phương hữu tình.
1Nhuộm tươi chân ngắt mầu xanh
1Dường bằng một cảnh hồ thanh ngất trời.
1Hình hô một cảnh lâu đài
1Đỉnh cao đột ngột chống trời một phương.
125. Quần sơn chầu lại nên hàng
1Thế lo đất phức ắt đường nơi đây.
1Cảnh thanh đắc ý mừng thay
1Lập làm lều tiện(5) tháng ngày náu chơi.
1Lân la chiếu đất màn trời
130. Làng Nhan cửa Khổng(6) chẳng đời chí xưa.
1Sơn hào song viết(7) thừa lưa(8)
1Thói quen nên kẻ tiều phu trí mầu(9)
1Ngày ngày bẻ được củi mau
1Xăm xăm làng hạnh gạo châu đổi dời.
135. Đèn trăng quạt gió vẫn chơi
1Hôm mai no đủ cầu gì thế gian.
1Một ngày lên đỉnh Cao sơn
1Nhìn xem sắc mộc thiên ban lạ dường.
1Cây cao chót vót sơn trường
140. Đàn lên tán lục rợp trương lạnh lùng.
1Tần Hoàng(10) xưa có sắc phong
1Ơn vua chức trọng phù tùng uy nghi.
1Hương xuân ngát nức tư bề
1Nguyễn Lang thấy lạ đòi khi lo lường.
145. Chữ rằng: trừ mộc khử ương(11)
1Tay cầm thiết phủ(12) chém thương tồi tàn.
1Ngả cây tiếng dậy lâm san
1Chuyển lên kinh khủng thế gian hãi hùng.
1Nguyễn Lang chẳng chuyển hình dung
150. Để khô làm củi dành phòng bán mai.
1Ai hay là sự bởi trời
1Bỗng đâu xui khiến có nơi hộ trì.
1Thấy sao Thái bạch tử vi
1Thần thông hiển hiện một khi nên người.
155. Một ông lão tử tám mươi
1Tây cầm tích tượng bởi trời sẩy sa(13).
1Thấy cây tươi tốt dầm dà
1Nguyễn Lang hoài chém tồi pha(14) thương này.
1Xăm xăm tích trượng cầm tay
160. Gõ vào cây ấy một giây lạ dường.
1Tự nhiên cây ngọn hồi dương
1Dựng nên cây tốt tán trương xanh rờn.
1Ngày sau Nguyễn Tuấn lại lên,
1Thấy cây vặc vặc vẹn toàn như xưa.
165. Gẫm rằng sự lạ qua ưa(15)
1Cây này đã ngả hôm qua tan tành.
1Một giờ ngọn lại tươi xanh
1Thấy âu là có thần linh hộ trì.
1Cây sao quái gở nhiều bề
170. Sự thì đã lạ thấy thì chẳng ngoa.
1Tay cầm phủ việt lại pha
1Chém cây ấy xuống ngã ra tan tành.
1Một bên đứng nép hòa rình
1Thấy ông Thái bạch kim tinh đến gần.
175. Liền hối(16) tích trượng chân nhân
1Gõ vào cây ấy chuyển vần lạ bao.
1Dựng nên đột ngột xanh cao
1Cây nên vặc vặc tơ hào chẳng ngoa.
1Tán xanh cây tốt dầm dà
180. Thấy ông Thái bạch tuổi già lu khu.
1Thấy trời có ý tựa cho
1Nguyễn Lang thất ý liền lo lời này.
1Ắt là Trời, Phật tới đây,
1Đè ông liền cướp được rày mừng sao.
185. Phật trên một tiếng cả cao:
1“Kìa mày lấy gậy thì tao càng mừng.
1Đây hòa cứu tử độ sinh
1Tự nhiên phúc đức bởi mình hòa ra.
1Cứu dân hộ quốc gần xa
190. Công cao đệ nhất người ta trọng dùng”.
1Nói thôi dạy phép thần thông
1Bụt liền thoắt biến về trong bảo đài.
1Ác vàng xế bóng non đoài
1Nguyễn Lang trở lại Sơn trai chốn nhà.
195. Ngày sau gánh củi bên hà(17)
1Mục đồng kính nhưỡng(18) âu ca chơi bời.
1Vo ve tiếng địch(19) vừa vui
1Đã không thì nói vui chơi đêm ngày.
1Nam thanh nữ tú làm bày.
1100. Khi ca khi nói khi cười khi không.
1Bảo nhau đã nức dậy đường
1Hò reo tập trận Đinh Hoàng cờ lau.
1Ngựa bò cờ nón voi trâu
1Kèn loa tiếng trống đâu đâu dậy đường
1105. Thuở ấy Thủy Tề Long vương
1Có một nam tử là chàng Tiểu Long.
1Phù sinh thơ dại trẻ trung
1Rắn vừa đội lốt chơi rông lạc đường.
1Trường giang tới bãi Tiêu Tương,
1110. Trẻ thơ bài ấy lòng càng muốn coi.
1Miên man lễn bãi đầu doi(20)
1Rắn liền thấy trẻ vui chơi lại gần.
1Thế gian ai biết thủy quân
1Làm chi ai biết tiên nhân Thủy tề.
1115. Tay cầm dùi mít liền bè
1Đánh Tiểu Long chết tức thì bảo nhau:
1“Đánh rắn đánh cho dập đầu
1Kẻo hòa chàng ấy ngày sau trả thù.”
1Để lên bãi cát nằm co
1120. Tiểu Long hồn phách bơ vơ rụng rời.
1Tình cờ đem để có nơi
1Nguyễn Lang đến đấy ngược xuôi bao giờ.
1Đông tây vắng vẻ bằng tờ
1Bãi non tới xuống trời vừa tà dương.
1125. Rắn liền nằm bãi Tiêu Tương
1Như rồng uốn khúc, tới nhường lạ thay.
1Nguyễn Lang tích trượng cầm tay
1Gẫm rằng ta thử gậy này thấy nao.
1Gậy thiên thần mới cho tao,
1130. Thiêng liêng nhường ấy nhẽ nào được hay.
1Ngày xưa người chữa được cây
1Bây giờ ta chữa rắn này thế nao.
1Bèn cầm tích trượng gõ vào
1Thần thông sao khéo lạ nào tự nhiên.
1135. Rắn lại trương cất đầu lên
1Hoàn hồn uốn khúc lại yên vẹn toàn.
1Cúi đầu quỳ lạy tạ ơn
1Tiểu Long trở xuống thủy tiên tức thì.
1Thần thông phút đến Thủy tề
1140. Vua cha coi thấy lòng thì mừng thay:
1“Con sao ba bốn hôm nay
1Tìm hoài chẳng thấy là hay nơi nào?”
1Tiểu Long lén lén tâu vào:
1“Đi chơi lạc đến ngòi Tào(21) thương thay.
1145. Lân la đến chốn Sơn Tây(22)
1Bãi Tương ngàn Sở chốn nay hữu tình.
1Một nơi là một khoe thanh
1Giang sơn thành thị dường tranh mỹ mùi.
1Cảnh kỳ dư ngất xuân đài
1150. Chẳng ngờ là chốn ấy người phàm gian.
1Chơi xuân đồng mục(23) có đàn,
1Thấy vui tôi muốn lên xem tới gần.
1Lốt thiêng trái dáng chân nhân
1Nó ngờ là rắn hại dân bấy chầy.
1155. Trẻ trung thơ dại chẳng hay
1Nó liền đánh chết bỏ thây bên ngàn.
1Có người là Tản Viên Sơn
1Tên là Nguyễn Tuấn phép tiên ai tầy.
1Thần thông tích trượng cầm tay
1160. Hoàn sinh của Bụt ấy nay bao giờ.
1Tài hiền tướng mạnh qua ưa
1Chữa tôi lại sống tỉnh xưa lại hoàn.
1Mới hay phúc bởi hoàng thiên
1Rày tôi về tới Thủy tiên chốn nhà.
1165. Lại xem thấy mặt mẹ cha”.
1Long Vương thấy nói xót xa trong lòng.
1Mừng con mở tiệc đền rồng
1Thỉnh mời Nguyễn Tuấn đến cùng tạ ơn.
1Sai tam bộ sứ Thủy tiên,
1170. Tiểu Long hiển hiện cùng lên tới nhà.
1Tiểu Long quỳ lạy trình qua:
1“Tôi là thủy tộc kênh hà Long Vương.
1Mục đồng ngày ấy làm thương(24)
1Ơn nhờ chữa được nghĩa càng cảm thay.
1175. Cha tôi thỉnh xuống một giây
1Đền rồng bẩm tạ ơn nay cho chàng.
1Dầu cha cho bạc cho vàng
1Sau là tiền vải vóc càng nhiều thay.
1Thái hoa thung thúc(25) đã đầy
1180. Của ấy chẳng tày sách ước quốc gia.
1Ước chi được nấy chẳng ngoa
1Thiên vàn xin đức vua cha cho về”.
1Dặn dò mọi nỗi vân vi
1Đem nhau vừa xuống Thủy tề Long cung.
1185. Vừa khi vua ngự đền rồng
1Thành vàng báu ngọc lạ lùng nhiều sao.
1Khắp đầy đài các cung cao.
1Phủ lầu tượng vị đền cao ngàn tầng.
1Long Vương cao ấy phán rằng:
1190. “Người tiên thói ở ra lòng thế bay”
1Tiểu Long được đội ơn này
1Chữa tôi ngày trước, khi nay vừa hồi.
1Nhân duyên ngõ nhẽ đôi người
1Kết làm huynh đệ chưa đời chí xưa.
1195. Vàng thì muôn nén lấy đi,
1Bạc thì muôn gánh thái hoa vô vàn.
1Lưu li hổ phách hô san
1Trân châu mã nã đầy bàn mười mâm.
1Báu yêu thức tốt dư trăm
1200. Khiến người đưa đến sơn lâm cho chàng.
1Nguyễn Lang vái tạ từ nhường:
1“Của vua châu báu vàn muôn kênh hà.
1Song le tôi khí chật nhà
1Tôi xin sách ước quốc gia bấy chầy”.
1205. Long Vương lòng chẳng thiết(26) thay
1Nửa cho, nửa lại tiếc rày chẳng cho.
1Tiểu Long đến trước tâu vua:
1“Tôi xin sách ấy vua cho ơn người”.
1Long Vương nghe nói ngùi ngùi
1210. Tố thư một cuốn đưa nay cho chàng.
1Nguyễn Lang khấp khởi lòng vàng
1Tức thì vái tạ Thánh hoàng trở ra.
1Tiểu Long vừa bước đưa qua
1Trượng phu bốn bể một nhà anh ba
1215. Dặn dò sau trước một bề
1Đầu đào báo lý chưa hề làm chi.
1Giang sơn đối mặt bái từ
1Người lên non Tản người về Thủy cung.
1Nguyễn Lang được phép thần thông,
1220. Ước chi được nấy trong lòng mừng thay.
1Ước nên đài các đông tây
1Ước nên châu báu chưa đầy chân chan.
1Ước nên thiên hạ bình an
1Ước nên bốn bể phượng loan một nhà.
1225. Ước nên phong vũ thuận hòa
1Được mùa bách cốc nhà nhà đủ no.
1Ước nên thọ khảo muôn thu
1Phúc nhà con cháu phúc nhà tiên ông.
1Ước chi được nấy lạ lùng
1230. Như trong ước muốn, như lòng ước xưa.
1Thuở ấy Thủy tề giang hà
1Nhường con lên trị quốc gia bấy chầy.
1Sơn quân thấy vậy mừng thay
1Bạn xưa chẳng phụ thường hay đi về.
1235. Thuở ấy Hùng vương cung phi
1Sinh được con gái tên là Mỵ Nương.
1Tuổi vừa mười bốn phi phương
1Tinh thần ngọc đúc Thọ Dương(27) ai tày.
1Má hồng đa ngọc hây hây.
1240. Ngờ thần tiên nữ xuống rày đài dương.
1Nương long chúm chím tuyết sương
1Tiết mai dường thuở thường thường mới đây.
1Tốt thay điệu điệu lưng ong,
1Mình thì chật bức quần hồng vừa vui.
1245. Thong dong ngọc thốt miệng cười
1Chân đi thoắt thoắt khoan thai dịu dàng.
1Nết na tư chất khác thường
1Hình dung yểu điệu nhan hồng thuyền quyên.
1Càng nhìn càng một hữu duyên,
1250. Hà sơn khả ví hương tiên khôn bằng.
1Da ngà tóc phượng khác hằng
1Thế gian ai thấy là chăng phải lòng.
1Một nơi là một lạnh lùng
1Ngọc lành cao giá đợi cùng chốn sang.
1255. Tiếng đồn dậy khắp lân bang
1Đã nên một gái mọi dường con cha.
1Đầu cài trâm hốt ngọc hoa
1Của bằng các bạn hằng nga tốt lành.
1Tiếng đồn mọi quận mọi thành.
1260. Thục vương muốn kết ả anh một nhà.
1Song le chẳng gả chồng xa
1Hùng Vương làm hội quốc gia bấy chầy.
1Khắp hòa thiên hạ đông tây
1Mặc cho con kén ai nay có tài.
1265. Dậy đường đồn nức mọi nơi
1Trông xem mừng gặp duyên trời dẩy dun.
1Ai ai cũng đến cửa son
1Mỵ Nương hợp ngọc lòng còn hồ nghi.
1Chưa lòng kết tóc phu thê
1270. Thế gian cùng đến đều thì ước ao.
1Long Vương lên đỉnh án cao
1Tìm chàng họ Tuấn kết giao bấy chầy.
1Đôi người khấp khởi mừng thay
1Đền cao gác rộng hây hầy ỷ la(28)
1275. Tiệc bày mỹ vị xướng ca
1Nghênh hôn mừng rỡ thật là vui thay.
1Chả lân thịt phượng khắp bày
1Mâm đầy ngọc thực, chén đầy quỳnh tương.
1Vang lừng một đám phong quan
1280. Sơn Tinh cùng chúa Long Vương khuyên mời.
1Hùng Vương làm hội tháng trời
1Tiếng đồn vang nức đòi nơi xa gần.
1Long Vương cùng chúa Sơn quân
1Đôi vua nghe tiếng mười phân ra mừng.
1285. Vội vàng mở tiệc tưng bừng
1Đôi vua về núi tếch rừng một khi.
1Trường An(29) thẳng tới làm kỳ
1Thấy Hùng Vương hội nhiều bề mừng thay.
1Xăm xăm tới trước tâu bày:
1290. “Đôi tôi kén rể phen này xứng chăng ?
1Chúng tôi tú pháp(30) tài năng
1Ngõ(31) đây Nguyệt Lão hợp trăng tình cờ”.
1Long Vương phun nước liền mưa
1Sơn quân đứng núi một giờ mọc lên.
1295. Thuở ấy thủy tộc thủy tiên
1Trong lòng lấy hột xảy liên từ đình.
1Đặt bày muôn khóm thụy tinh
1Một dây liền mọc lá cành nở ra.
1Nên cây tươi tố dầm dà
1300. Trăm hoa đua nở dà dà cành xanh.
1Thuở ấy họ Tuấn Sơn quân
1Tây cầm phủ việt lấy cành chém cây.
1Đòi nơi lá rụng hoa rơi,
1Lại lấy tích trượng cầm tay vội vàng.
1305. Gõ vào ngay cây cam đường
1Tự nhiên cây lại hồi dương tức thì.
1Quả hoa lại kết liền chi
1Cây nên vặc vặc tư bề hồi dương.
1Chồi là lá ngọc cành vàng
1310. Hùng Vương xem thấy lòng càng mừng thay.
1Đôi người thi phú đều hay
1Hung Vương mới nói lời này phán ra:
1“Cây cao hòa có một hoa
1Duyên ai nấy gặp biết hòa làm sao
1315. Đôi người dạ cũng đều yêu
1Tài khôn nhường ấy biết nào phụ ai.
1Song le duyên phận mặc trời
1Lòng lo lưỡng lự mở lời ấy khôn.
1Nhân vì nhà có một con.
1320. Bây giờ dụng sự kết hôn gả chồng.
1Mặc ai sính lễ việc dùng
1Đặt bày trước mặt sân rồng đến sơ(32)
1Ấy là phận đẹp duyên ưa
1Nhân duyên mặc lão tình cờ mặc ai.
1325. Đôi vua bái tạ trước ngai
1Về nhà sắm sửa sính tài kíp thay.
1Sơn quân sách ước cầm tay
1Ước nên vàng bạc của đầy dư muôn.
1Trâu bò gà lợn đến tuôn
1330. Sẵn sàng bày đặt trước đền hư không.
1Mời khuyên yến ẩm đền rồng
1Mỵ Nương trước lấy về cùng Tản Viên.
1Long Vương sau đến lỡ tin
1Thẹn thò xấu mặt lòng càng hận thay.
1335. Bèn liền chốc ý phân tây
1Ơn xưa chẳng đoái lại hay oán thù.
1Thời vừa tháng bảy đầu thu
1Kim phong hải khẩu gió mưa bay dời.
1Tiết sang vừa chịu lệnh trời
1340. Cầm quyền Bạch đế đòi nơi lạ dường.
1Thuở ấy Thủy Tề Long Vương
1Hận vì chẳng được Mỵ Nương kết nghì.
1Vãng lai tin tuyệt đi về
1Giao lân nào có ỏ ê tới lòng.
1345. Nẻo hòa dạ khác thì vong(33)
1Long Vương sắm sửa thủy cung binh quyền.
1Hận rằng lên đánh Tản Viên
1Chư quân eo óc nước dâng lên ngàn.
1Kình nghê sấu vực giương vây
1350. Rắn rồng uốn khúc rồng bay một đoàn.
1Nước dâng lai láng đầy ngàn
1Mưa tuôn bão giật sấm ran đùng đùng.
1Nhị hà dòng nước mênh mông
1Kình nghê thổi gió rắn rồng phun mưa.
1355. Đua nhau thừa tướng trường xà
1Miết lân ngư trượng kể dư muôn vàn.
1Giương vây vùng vẫy tiến ngàn
1Uy ra điện chớp sấm ran lôi đình.
1Tam đầu cửu vĩ tiên binh(34)
1360. Đến Từ Liêm huyện sự tình nghỉ ngơi.
1Thấy bà lão mẫu tốt tươi
1Một mình xuống tắm thửa nơi giang bà.
1Long Vương thử triệu niên nga(35)
1Không dưng bắt lấy lão bà thảm thương.
1365. Chẳng ngờ phải mẹ vua Chèm(36)
1Ra đi đến Bắc trấn biên hòa về.
1Mình cao nghìn trường chỉn ghê
1Theo xuống hòa tắm thông tri đâu là.
1Bởi về thấy vắng mẹ già
1370. Chăng ngờ thủy tộc bắt hòa chăng thương.
1Ông Chèm báo oán Long Vương
1Lưới giăng ngăn khúc bến giang đón về.
1Thuở ấy Long tộc Thủy tề
1Đem quân lên đánh Ba Vì Tản Viên.
1375. Sơn quân cùng chúa Thủy tiên
1Đôi vua ra trận ấy liền bảo nhau:
1“Ấy vua Thủy tộc đi đâu
1Mặt trăng mặt vực thấy nhau chẳng chào.
1Hay là chàng có lòng nào
1380. Đem quân rồng rắn lên ngàn làm chi?”
1Thưa rằng: “Bởi vua Ba Vì
1Lừa nhau làm sự vô nghì trước sau.
1Hơn lòng lấy cướp vợ nhau
1Chăng vì bầu bạn dạ hầu bất nhân.
1385. Thấy chàng làm chúa Sơn quân
1Ra lòng khinh bạc mười phần sai ngoa.
1Bạn xưa sao chẳng thực thà
1Cho nên thủy tộc kênh hà cất binh.
1Nhọc lòng văn vũ triều đình
1390. Cho nên lỗi đạo đệ huynh bởi người”.
1Sơn quân hòa nói hòa cười:
1“Đôi ta cùng đội ơn trời giáng sinh.
1Chàng đã ra dạ tương tranh
1Cho nên lỗi đạo đệ huynh chăng hòa”.
1395. Ắt là sơn thủy nên xa
1Sơn quân cũng chúa kênh hà tranh khi.
1Sơn quân những tướng hùng uy
1Khỉ hươu hùng hổ làm vì tiến ra.
1Chư quân đối địch giang hà
1400. Hươu Tần Khỉ Sở rày đà nên công.
1Long Vương đội lấy lốt rồng
1Phun mưa thổi gió đùng đùng bốn phương.
1Phong vân một trận lạ dường
1Kình nghê sấu vực quân càng nhiều thay.
1405. Cá mừng gặp hội rồng mây
1Nhẩy qua cửa Vũ một giây nên rồng.
1Đua nhau những trí anh hùng
1Điểu phượng theo rồng, phù chú lấy sang.
1Đôi bên giao chiến vội vàng
1410. Non tiên hổ báo theo chàng long ngư.
1Đanh nhau vừa được ba giờ
1Long Vương hóa phép giục ba quân vào.
1Biến làm đội rác râu tào
1Nổi lên mặt nước tiến vào đột xung.
1415. Sơn quân gẫm được sự lòng
1Trúc thưa trúc mật tây đông tứ bề.
1Đôi bên đều cũng uy nghi
1Lạc hay chế ngự ai thì thua ai.
1Bảo nhau chém rác quân tào
1420. Đều thì có máu, đều thì lạ thay.
1Trúc tên bắn phải mưa bay
1Kình nghê cá rắn thác đầy làm nơi.
1Vốn xưa đã được sách trời
1Thủy Tinh thua xuống thửa nơi giang hà.
1425. Ba quân hồi khải hoàn gia,
1Sơn trường lấy gỗ trở ra tiến về.
1Thủy quân nẻo cũ quen về
1Ngày sau tức thì đến xã Từ Liêm.
1Tiên binh xung lưới ông Chèm
1430. Ai hòa chẳng được càng thêm lo lường.
1Hội đồng cá rắn biên giang
1Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay.
1Trả ơn thân mẫu khi nay
1Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng.
1435. Bủa vây mọi khúc biên giang
1Rắn rồng bắt lấy bật ngang vào đồi.
1Long Vương mất vía rụng rời
1Đường về chẳng được mắc người khôn qua.
1Long Vương hải tàng(37) còn xa,
1440. Mở rèm cửa Hát(38) luồn qua chu kiều,
1Năm năm thường một neo chèo
1Đem quên lên đánh Ba Vì Tản Viên.
1Sơn quân thấy bạn chăng hiền
1Lại lấy sách ước ra nguyền một giây.
1445. Chước chi tao ước được mày
1Chúa Tiên tinh ước một giây lạ dường.
1Long Vương thủy tộc ba đầu
1Ông Đàm ông Cột ông Lương ông Chài.
1Song le mạnh chẳng qua trời
1450. Sách thiêng chư tưởng rụng rời hồn kinh.
1Tự nhiên lên núi nộp mình
1Thần thông biến hóa hiện hình càng ghê.
1Đều thì cá rắn chỉn ghê
1Mình dài trăm thước uy nghi lạ lùng.
1455. Rắn thiêng hóa phép nên rồng
1Sơn Tinh thương tích trong lòng dây dây(39).
1Nhớ xưa hai nghĩa chẳng rời
1Tùy hàng bầu bạn mong hoài lại tha.
1Hiện nên tướng cả lòng xà
1460. Cúc cung bách bái nằm ca(40) tiền đường.
1Thuở ấy Sơn quân phán rằng
1Tiếc thay những tướng tài hiền Long quân
1Đều hay hộ quốc cứu dân
1Huy hòa bốn bể xa gần được ơn.
1Lại đi đánh trả Thủy tiên 
1466. Sơn quân có đức hoàng thiên hộ trì.

CHÚ THÍCH
(1) Tứ bất tử: Đức Thánh Tản, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng, Đức Thánh mẫu Liễu Hạnh.
(2) Phong đăng bách cốc: Được mùa, nhiều thóc lúa.
(3) Án tuyết: Nơi học hành.
(4) Gạo châu củi quế: Gạo như ngọc, củi như quế.
(5) Lều tiện: Con lề nhỏ.
(6) Nhan: Nhan Uyên; Khổng: Khổng Khâu. Hai nhân vật tiêu biểu cho Nho học.
(7) Song viết: Chưa rõ nghĩa?
(8) Thừa lưa: No đủ, sung túc.
(9) Trí mầu: Khôn ngoan, thông tuệ.
(10) Tần Hoàng: Vua nhà Tần, tương truyền Tần Thủy Hoàng ban sắc phong cho cây tùng chức Đại phu.
(11) Trừ mộc khử ương: dẹp trừ ma mộc, loại bỏ tai ương.
(12) Thiết phủ: Rìu sắt.
(13) Sảy sa: Chợt sa xuống.
(14) Pha: Phá tan.
(15) Qua ưa: Rất tốt đẹp.
(16) Hối: gọi.
(17) Bên hà: bên sông.
(18) Kích nhưỡng: Một trờ chơi dân gian thời cổ, thường tổ chức trong các ngày hội. Theo truyền thuyết, đời Nghiêu Thuấn thiên hạ thái bình, dân chúng khắp nới tổ chức lễ hội, có cả trò chơi kích nhưỡng.
(19) Tiếng địch: Tiếng sáo thổi.
(20) Đầu doi: Đầu bãi sông bồi.
(21) Ngòi Tào: Tức Tào Khê, nơi trụ trì của Lục tổ Huệ Năng, của Thiền Tông. Về sau dùng để chỉ khung cảnh Tiên Phật kỳ diệu.
(22) Sơn Tây: Tức tỉnh Sơn Tây, nơi có núi Tản.
(23) Đồng mục: Trẻ chăn trâu.
(24) Làm thương: Làm cho tổn thương.
(25) Thái hoa thung thúc: Từng tấm lụa hoa.
(26) Thiết: Tha thiết, đằm thắm.
(27) Thọ Dương: Tên một vị Công chúa đời Tống của Trung Quốc, có nhan sắc tuyệt mỹ.
(28) Ỷ la: Vóc lụa.
(29) Trường An: Chỉ Kinh đô của đất nước.
(30) Tú pháp: Pháp thuật kỳ lạ.
(31) Ngõ: Dường như, có lẽ là.
(32) Đến sơ: Đến sớm.
(33) Vong: Quên.
(34) Tiên binh: Quân đi trước.
(35) Niên nga: Chưa rõ nghĩa?
(36) Vua Chèm: Tức Lý Ông Trọng.
(37) Hải tàng: Cung điện ở Biển.
(38) Cửa Hát: Cửa sông Hát
(39) Dây dây: Rõ ràng.
(40) Ca: Ở, tại.