HÙNG VƯƠNG MIẾU

Hùng Vương Miếu là một miếu thờ cổ thuộc thôn Đại Đình xã Chu Đề , huyện Lập Thạch, Phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây đời Lê
Hùng Vương miếu

Đến cuối đời Nguyễn thì xã Chu Đề đổi tên thành Đại Đề, thời ấy xã này thuộc huyện Lập Thạch tỉnh Sơn Tây, đến ngày nay thuộc xã Đình Chu, huyện Lập Thạch, Tỉnh Vĩnh Phúc
Miếu có kết cấu hình chữ Công (工) gồm tòa tiền tế và hậu cung, được khởi dựng vào đời Lê Trung Hưng và trùng tu vào đời Nguyễn.
Tại câu đầu bên trái gian tiền tế còn khắc ghi dòng chữ Hán 
CẢNH HƯNG NHỊ THẬP TAM NIÊN TUẾ TẠI NHÂM NGỌ LƯƠNG NGUYỆT NHẬT THỜI THỤ TẠO (1762) 
Và về phải được khắc ghi 
MINH MỆNH LỤC NIÊN TUẾ THỨ ẤT DẬU TỨ NGUYỆT LƯƠNG NHẬT CÁT THỜI SÙNG TU (1825)
Đến năm Bảo Đại Canh Thìn (1940) miếu được sửa sang lại đắp bờ nóc đầu đao đây cũng là lần trùng tu để lại dấu ấn cho Miếu đến bây giờ.
Tuy có cấu trúc nhỏ nhưng ngôi miếu có vị trí rất quan trọng trong tín ngưỡng thờ tự tại địa phương, bởi đây chính là nơi thờ chính các vị thánh của làng. Đình làng chỉ là nơi thờ vọng, Về Theo sách “Sắc phong Vĩnh Phúc” của nhà nghiên cứu văn hóa Vĩnh Phúc Lê Kim Thuyên, người đã trực tiếp khảo sát và đọc bài vị, sắc phong của miếu thấy. Thờ cúng vị thần có dòng thánh tâm bài vị là: 
“ĐỘT NGỘT CAO SƠN CỔ VIỆT HÙNG THỊ THẬP BÁT THẾ THÁNH VƯƠNG”
Tức là vị Hùng Quốc vương, vị vua Hùng thứ nhất của quốc gia Văn Lang.
(Khi làm lễ tại miếu cụ từ có nói nhầm thành Hùng Duệ Vương)
Các hoành phi câu đối tại miếu cũng đã ca ngợi vị thành thờ tại miếu là vị vua Hùng đầu tiên.
自 古 帝 王 初 出 聖
于 今 宇 宙 正 國 宗
Phiên âm.
Tự cổ đế vương sơ xuất thế
Vu kim vũ trụ chính quốc tôn.
Nghĩa:
Từ cổ đế vương đời mới dựng
Tới nay mới có nước cội nguồn.
Ở đình là nơi hội sở của làng cũng là nơi thờ vọng có bức hoành phi lớn
“NAM THIÊN TRIỆU THỦY-南天肇始” nghĩa là “Khởi dựng trời Nam” đã nêu lên công tích của vua khai sáng cho nền văn hiến nước ta.
Càng rõ ràng hơn, sắc phong cho Miếu năm Minh Mệnh thứ 2, sắc có viết “
“ Minh mệnh niên thất nguyệt thập ngũ nhật (1821)
Sắc LẬP THẠCH huyện, CHU ĐỀ xã, nhĩ xã tòng tiền phụng sự THÁNH TỔ HÙNG VƯƠNG….
Như vậy, miếu là nơi thờ chính có từ đời Lê, đời Nguyễn làng mới xây đình lớn để làm nơi hội sở và thờ vọng. Bài vị, sắc phong đều được thờ tại miếu trước CM tháng 8 cứ nhằm mỗi ngày 10 tháng 10 âm lịch hàng năm là ngày tiệc thờ thánh, làng có tổ chức rước kiệu rước bài vị từ Miếu Hùng Vương ra đình làm lễ tế, ca hát rồi lại rước quay trở về Miếu trong ngày, nhưng đáng tiếc đến nay chưa được khôi phục lại.

Hùng Vương Miếu là một miếu thờ cổ thuộc thôn Đại Đình xã Chu Đề


Theo thông tin từ sở VHTT Vĩnh Phúc : “Đình Đình Chu thờ 18 vị vua Hùng, đây cũng là tiền đề để xã Đình Chu khắc bia giới thiệu ngay trước ngôi đình với nội dung đó, nhưng không chính xác. Có lẽ cán bộ văn hóa đã lấy chữ “ Thập bát tỷ phù” nhưng chưa dịch phía sau có chữ “Sơ đầu đệ nhất ” nghĩa là “ Vị thứ nhất của 18 đời
十 八 葉 璽 符南 國 初 頭 第 一
億 萬 年 香 火 西 天 上 等 最 靈
Phiên âm.
Thập bát diệp tỉ phù, Nam quốc sơ đầu đệ nhất 
Ức vạn niên hương hỏa, tây thiên thượng đẳng tối linh.
Nghĩa:
18 đời truyền ngôi, mở mối nước Nam thánh thứ nhất. 
Ức vạn năm hương khói, trời Tây thượng đẳng tối linh.
Nhân đây xin chép lại toàn bộ nội dung hoành phi câu đối ở đây theo sách “CÂU ĐỐI DI TÍCH VĨNH PHÚC” cũng của nhà nghiên cứu Lê Kim Thuyên.
Miếu của làng Chu Đề, nay là xã Đình Chu.
Thờ cúng vị thần có dòng thánh tâm bài vị là: Đột Ngột Cao Sơn cổ việt Hùng thị thập bát thế Thánh vương. Tức là vị Hùng Quốc vương, vị vua Hùng thứ nhất của quốc gia Văn Lang.
Còn 05 đôi câu đối cổ.
Câu 01.
自 古 帝 王 初 出 聖
于 今 宇 宙 正 國 宗
Phiên âm.
Tự cổ đế vương sơ xuất thế
Vu kim vũ trụ chính quốc tôn.
Nghĩa:
Từ cổ đế vương đời mới dựng
Tới nay mới có nước cội nguồn. 
Câu 02.
北 丞 大 命 開 王始
南 啓 文 郎 建 國 初
Phiên âm.
Bắc thừa đại mệnh khai vương thủy
Nam khải Văn Lang kiến quốc sơ.
Nghĩa:
Vâng mệnh lớn rõ từ phương Bắc
Lập nước Văn Lang dựng nước Nam.
Về sự kiện này, Sách “Đại Việt sử kí toàn thư” của Ngô Sĩ Liên chép:
“ Kinh Dương vương
Tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông… Xưa cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên sinh ra vua… Đế Minh rất quý muốn cho nối ngôi, vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi làm con nối ngôi cai quản phương bắc, phong cho vua làm Kinh Dương vương, cai quản phương nam gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân,
Lạc Long Quân tên húy là Sùng lãm.
Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ sinh ra trăm con trai (tục truyền là trăm trứng) là Tổ của Bách Việt.
Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang.
( Xem bản dịch NXH KHXH Hà Nội. 1998. Tập I)
Câu 03.
正 氣 巍 乎 天 地 與
明 威 燦 爾 日 皇 如
Phiên âm.
Chính khí nguy hồ thiên địa dữ
Minh uy xán nhĩ nhật hoàng như.
Nghĩa:
Chính khí lớn lao trời đất mở.
Rạng ngời uy sáng mặt trời lên.
Câu 04. 
十 八 葉 璽 符南 國 初 頭 第 一
億 萬 年 香 火 西 天 上 等 最 靈
Phiên âm.
Thập bát diệp tỉ phù, Nam quốc sơ đầu đệ nhất 
Ức vạn niên hương hỏa, tây thiên thượng đẳng tối linh.
Nghĩa:
18 đời truyền ngôi, mở mối nước Nam thánh thứ nhất. 
Ức vạn năm hương khói, trời Tây thượng đẳng tối linh.
Câu 05.
西 州 堯 舜 垂 衣 日
南 粤 鴻 厖 拓 土 年
Phiên âm.
Tây châu Nghiêu Thuấn thùy y nhật
Nam Việt Hồng Bàng thác thổ niên.
Nghĩa:
Ngày tháng Thuấn Nghiêu đời nhàn rỗi
Hồng Bàng Nam Việt vững tháng năm 
- Trung Quốc cổ đại có thời Đế Nghiêu-Đế Thuấn là nước có vua.
- Việt Nam có kỷ Hồng Bàng cũng là nước có vua.
Lịch sử cổ đại Việt Nam và Trung Quốc đều có truyền thống rực rỡ ngang nhau. 
Chư “ Thùy y” là chữ tắt của mục từ “thùy y cung thủ” có nghĩa là chắp tay rủ áo, ý ca tụng đời thái bình, vua chỉ ngồi yên vị mà giữ nước.
Ở tòa thượng cung có hai câu.
Câu 01.
壅 壅 在 宮 肅 肅 在 朝
赫 赫 厥 聲 濯 濯 厥 靈
Phiên âm.
Ung ung tại cung, túc túc tại triều
Hách hách quyết thanh, trạc trạc quyết linh.
Nghĩa:
Êm thuận trong cung triều đình nghiêm chỉnh
Chói lọi danh tiếng sáng sủa cõi thiêng.
Câu 02.
與 圖 一 統 傳 開 史
香 火 千 秋 紀 念 臺
Phiên âm.
Dư đồ nhất thống truyền khai sử
Hương hỏa thiên thu kỉ niệm đài.
Nghĩa:
Dư đồ một mối thời khai sử
Hương lửa nghìn năm kỉ niệm đài.
Ở góc ngoài nhà tiền tế có hai câu.
Câu 01.
俾 壽 俾 昌 以 能 錫 福
克 煙 克 祀 惟 德 之 馨
Phiên âm.
Tỉ thọ tỉ xương dĩ năng tích phúc.
Khắc yên khắc tự duy đức chi hinh.
Nghĩa:
Được thọ được sang do tích phúc
Cứ cầu cứ cúng đức mà nên.
Câu 02. 
大 雲 變 覆 無 彊 鎖
亭 樹 敷 榮 有 聚 春
Phiên âm.
Đại vân biến phúc vô cương tỏa 
Đình thụ phu vinh hữu tụ xuân.
Nghĩa:
Mây lớn biến đổi không cương giới.
Đình cao dáng đẹp hội xuân về.

Trần Ngọc Đông