MỘT BÀI VĂN TẾ BẰNG CHỮ NÔM

bài viết của Vũ Thanh Hằng
Hình minh họa
Trong dòng văn học Nôm đầu thế kỷ XIX, bên cạnh một Hồ Xuân Hương nổi tiếng “Bà chúa thơ Nôm” với những bài thơ dí dỏm, chua cay, dùng chữ, hiệp vần tuyệt khéo, còn có một Bà huyện Thanh Quan với phong cách hoàn toàn trái ngược nhưng cũng không kém phần hấp dẫn: thanh tao, đoan chính thể hiện qua giọng văn trang nhã, điêu luyện. Đặc biệt, sống trong xã hội đầy biến động thời cuối Lê đầu Nguyễn, thơ Bà Huyện Thanh Quan thể hiện những tình cảm sâu lắng, luôn luôn nghĩ đến vận nước của một phụ nữ trí thức yêu nước. Nhưng đáng tiếc, các sáng tác của Bà hiện nay còn lại không nhiều. Cho đến nay, chúng ta mới biết đến một ít bài thơ Đường luật như: Qua đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc...
Gần đây, chúng tôi được đọc một sáng tác của Bà thuộc thể loại khác: văn tế. Đó là bài Song nữ tế tế thái thủy văn, chép trong sách Quốc phong ngẫu vịnh, ký hiệu VHv.2248, sách của Thư viện Viện Hán Nôm. Vậy xin giới thiệu nguyên văn bài văn tế do chúng tôi phiên chú để các bạn cùng tham khảo.

SONG NỮ TẾ TẾ THÁI THỦY VĂN
(Bài văn của hai chàng rể tế mẹ vợ)
Bà huyện Thanh Quan soạn.

Trước sàng linh(1) khóc mà than rằng:
Kỳ trăm năm chưa mãn(2), mẹ vội lên cõi Phật chẳng nhìn con,
Ơn chín chữ khôn đền, con tìm khắp dưới trời không thấy mẹ.
Mẹ lìa! Mẹ ơi ! (3) con, tình thảm thiết, sao đành
Con nhớ mẹ, nỗi sau xưa xiết kể
Duyên tác hợp(4) lạm nghe mười chín tuổi,
Rổ tần phồn(5) từng theo dấu mẹ đi.
Mối sinh thành đã hầu bảy tám lần,
Sân chi điệp(6) lại ví dòng Tạ thị(7).
Thúi từ nhân đà nức tiếng nghi gia(8)
Đường thanh lịch cũng đủ mùi thù thế(9)
Ngoài ba kỷ(10) chưa vẹn nguyền giai Lão(11), buồng thung(12) từng gió tủi mưa sầu.
Năm mươi năm chưa trọn kiếp phù sinh, chồi liễu bỗng sương giăng nắng xế
ôi !
Lá rụng ngàn xuân,
Mây lồng đỉnh dãy,
Trên tiên cảnh chợt mách tin, thanh điểu(13) rước cùng đi cho vẹn nghĩa tao khang(14).
Dưới trần hoàn(15) dầu cưu dạ(16) từ Ô(17) tìm đâu thấy để đền ơn non bể(18)
Núm đồng nghiêng, dễ cấm tiếng chuông rè,
Chùm quả nặng, khôn nâng cành lá ủ.
Song cũng biết một trai là có, nhưng đà mây bay hạc lánh, thừa điêu(19) phải cậy tôn hàng(20)
Đã hay mười gái cũng là không, khôn biết quả mãn thuyền đầy, tương sự(21) chỉ nhờ tay nữ tế(22).
Rày:
Nhân tiết hạ thiên(23)
Lâm tuần đoan ngọ(24),
Gọi là bát nước điển(?) hương, lòng thành kính dãi bày trong ngu tế(25).
CHÚ THÍCH
(1) Sàng linh (linh sàng): giường thờ người chết.
(2) Câu này ý nói sống chưa đầy trăm tuổi.
(3) Chỗ này nguyên văn hình như sót hai chữ. Tạm thay bằng “Mẹ lìa” để giữ phép đăng đối với câu dưới, chờ tra cứu thêm.
(4) Duyên tác hợp: chỉ việc lấy chồng
(5) Rổ tần phồn: rổ bèo, rau. Cả câu ý nói mẹ tần tảo, chăm lo việc nhà, noi gương mẹ dì mình.
(6) Chi diệp: Cành và lá, đây chỉ con cháu.
(7) Tạ thi: Họ Tạ, một dòng họ lớn ở Trung Quốc thời xưa, có con cháu đông đúc.
(8) Nghi gia: ăn ở hòa hợp, có công với nhà chồng.
(9) Thù thế: cư xử với đời.
(10) Ba kỷ: 1 kỷ là 12 năm, 3 kỷ tức là 36 năm.
(11) Giai lão: Vợ chồng sống hòa hợp nhau cho đến già. Cả câu nói khi bà mẹ mới ngoài 36 tuổi thì chồng mất.
(12). Buồng hung: phòng ở của người cha.
(13) Thanh Điểu: con chim xanh, đây chỉ sứ giả của cõi tiên
(14) Nghĩa tao khang: nghĩa vợ chồng gắn bó từ thuở còn nghèo khó.
(15) Trần hoàn: Cõi trần.
(16) Cưu dạ: mang trong lòng
(17) Từ ô: Con quạ, một loài chim có hiếu. Đây chỉ người con có hiếu.
(18) Ơn non bể: ơn cha mẹ sâu nặng như non như bể.
(19) Thừa điêu: Thừa kế việc thờ cúng tổ tiên.
(20) Tôn hàng: hàng cháu.
(21) Tương sự: đỡ đần công việc
(22) Nữ tế: con rể
(23) Hạ thiên: trời mùa hạ
(24) Đoan Ngọ: ngày mồng 5 tháng 5
(25) Ngu tế: một lễ tế trong tang lễ thời xưa.