Bài báo bằng thơ chữ Hán đầu tiên của Bác Hồ

Hạ Diễn thời trẻ

Hạ Diễn thời trẻ

Theo: báo "An ninh biên giới", số 15, trang 24
Mọi người đều biết Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời là một nhà văn, nhà thơ, nhà báo, với nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và đặc biệt là tiếng Hán với tác phẩm "Nhật ký trong tù" đã được xuất bản nhiều lần, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, còn được thể hiện nhiều lần bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Nhật, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên. Nhưng có lẽ ít ai biết đến bài thơ chữ Hán đầu tiên của Người được đăng báo.
 
Nhờ sự giới thiệu của văn phòng Bát lộ quân ở Quế Lâm (TQ). Một buổi tối tháng 11 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc mang bản thảo bài thơ làm bằng chữ Hán "Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ" (Cứu Trung Quốc là tự cứu mình) đến số nhà 12, đường Thái Bình là nơi ở của tổng biên tập tờ "Cứu vong nhật báo" tên là Hạ Diễn. Đọc song bài thơ này Hạ Diễn rất thích, nhưng Hạ Diễn đề nghị người cầm về rồi gửi bằng đường bưu điện đến cho tòa báo để phòng khi bọn Quốc dân đảng lục soát thì Hạ Diễn có chiếc phong bì đã được đóng con dấu bưu điện mang ra đối phó. Từ đó Nguyễn Ái Quốc thường gửi bài đến tòa báo.

Tờ "Cứu vong nhật báo"

 
"Cứu vong nhật báo" là một tờ báo do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, sáng lập ở Thượng Hải tháng 8 năm 1937, năm 1938 rời về Quảng Châu, đầu năm 1939 rời về Quế Lâm vào tháng 10 năm 1940 và trung tuần tháng 12 thì rời Quế Lâm. Nguyễn Ái Quốc đến Quế Lâm vào tháng 10 năm 1940 và trung tuần tháng 12 thì rời Quế Lâm. Trong thời gian đó, Người đã viết cho CỨU VONG NHẬT BÁO tám bài sau đây với bút danh là Bình Sơn:(1) Trì hoa dữ hoàng ngưu (con nhái và con bò) đăng ngày 24 tháng 11.
(2) Lưỡng cá phàm – nhĩ tái chính phủ (Hai chính phủ Versailles) đăng ngày 29 tháng 11.
(3) Tạo dao (Đặt điều) đăng ngày 1 tháng 12.
(4) Việt Nam nhân dân dữ Trung Quốc báo chí (Nhân dân Việt Nam với báo chí Trung Quốc) đăng ngày 2 tháng 12.
(5) An Nam ca dao dữ Trung Quốc kháng chiến (ca dao An Nam với cuộc kháng chiến của Trung Quốc) đăng ngày 4 tháng 12/
(6) Ngư mục hỗn châu (Mắt cá đánh lận ngọc trai) đăng ngày 5 tháng 12.
(7) Ý đại lợi thực bất đại lợi (Ý Đại Lợi thực không đại lợi) đăng ngày 6 tháng 12.
(8) Việt Nam “phục quốc quân” hoàn thị mại quốc quân (Việt Nam “phục quốc quân” hay là mại quốc quốc) đăng ngày 18 tháng 12.
Bẩy bài đầu đều đăng ở chuyên mục Văn hoá cương vị, riêng bài cuối đăng ở mục Bản báo đặc cáo. Trong đó bốn bài “Con nhái và con bò”, “Hai chính phủ Versailles”, “Đặt điều”, và “Ý Đại Lợi thực không đại lợi” thuộc loại bài bình luận quốc tế, bốn bài còn lại đều xoay quanh chủ đề cách mạng Việt Nam và mối quan hệ Việt Nam – Trung Hoa.
Trong bài thứ 5, tác giả làm lời “một nhà báo” đưa tin về tình hình nhân dân Việt Nam chi viện mọi mặt cho cuộc kháng chiến của Trung Quốc. Người viết: “Đại đa số nhân dân An Nam đều hết sức đồng tình với cuộc kháng chiến của Trung Quốc... Để mở rộng việc tuyên truyền giúp Trung Quốc chống Nhật Việt Nam độc lập đồng minh hội, một đoàn thể rất sôi nổi hoạt động nhưng cũng rất bí mật - đã nghĩ ra một cách rất tài tình: họ đã đặt ra các bài hát theo các làn điệu rất phổ thông và dạy cho trẻ em hát. Thế là tự nhiên không hề hay biết gì cả, các cháu bé An Nam trở thành những nhà tuyên truyền viên rất đắc lực. Những bài hát đó chẳng mấy chốc đã truyền khắp cả nước. Cuối cùng bài báo đã sao lại một bài ca dao lưu hành ở Việt Nam”. Thật ra đó là một bài ca tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc viết bằng bạch thoại. Tuyên truyền bằng hình thức ca dao vốn là một sở trường của Nguyễn Ái Quốc như chúng ta đã biết trong hàng loạt bài ca tiếng Việt đăng trên báo Việt Nam độc lập những năm sau đó.

Tạp chí Hàn Nôm số 1 năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho đăng bài: "Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ" đăng trên tờ "Cứu vong nhật báo" ngày mồng 4 tháng 12 năm 1940. Theo bài viết này, đây là bài thơ chữ Hán sớm nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo. Xin giới thiệu lại cùng bạn đọc nguyên văn bản chữ Hán, được Phác Can phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ:
救 中 國 是 救 自 己
平 山
日 本 東 方 法 西 斯 ,
野 蠻 凶 暴 又 殘 酷 .
發 動 了 侵 華 戰 爭 ,
中 國 人 民 被 荼 毒 .
人 被 殺 了 家 被 焚
滿 地 血 紅 滿 山 骨 .
飛 機 落 彈 無 可 免 ,
饑 寒 疾 病 難 生 活 .
他 們 艱 苦 地 斗 爭
保 衛 民 主 與 和 平 .
他 門 需 要 援 助 者 ,
他 門 需 要 有 同 情 .
日 鬼 向 世 界 進 攻 ,
他 是 人 類 之 公 敵 .
越 南 兄 弟 姊 妹 阿 ,
快 快 起 來 助 中 國 .
努 力 幫 助 中 國 人 ,
中 國 越 南 如 唇 齒 .
須 知 唇 亡 則 齒 寒 ,
救 中 國 是 救 自 己 .
Phiên âm:
CỨU TRUNG QUỐC THỊ CỨU TỰ KỶ
Nhật Bản đông phương phát tây tư,
Dã man hung bạo hưu tàn khốc.
Phát động Liễu xâm Hoa chiến tranh,
Trung Quốc nhân dân bị đồ độc.
Nhân bị sát liễu, gia bị phân,
Mãn địa huyết hồng, mãn sơn cốt.
Phi cơ lạc đạn vô khả miễn,
Cơ hàn tật bệnh nan sinh hoạt.
Tha môn gian khổ địa đấu tranh,
Bảo vệ dân chủ dữ hoà bình.
Tha môn nhu yếu viện trợ giả.
Tha môn nhu yếu hữu đồng tình.
Nhật quỷ hướng thế giới tiến công.
Tha thị nhân loại chi công dịch.
Việt Nam huynh đệ tỉ muội a,
Khoái khoái khởi lai trợ Trung Quốc.
Nỗ lực bang trợ Trung Quốc nhân,
Trung Quốc Việt Nam như thần xỉ.
Tu tri thần vong tắc xỉ hàn,
Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ.
Bình Sơn
4- 12- 1940
Dịch nghĩa:
CỨU TRUNG QUỐC LÀ TỰ CỨU MÌNH
Nhật Bản là bọn phát xít phương Đông,
Dã man, hung bạo lại tàn khốc,
Đã gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Trung Hoa.
Nhân dân Trung Quốc bị đầu độc khổ sở.
Người thì bị giết, nhà bị đốt,
Đầy đất máu đỏ, đầy núi xương phơi.
Tàu bay bom đạn, không thể tránh khỏi,
Đói rét, bệnh tật, khó sống nổi.
Họ đang đấu tranh một cách gian khổ,
Bảo vệ dân chủ và hoà bình.
Họ cần có người viện trợ,
Họ cần có sự đồng tình.
Giặc Nhật tiến công cả thế giới,
Chúng là kẻ thù chung của loài người.
Anh em chị em Việt Nam ơi!
Mau mau đứng lên cứu Trung Quốc.
Ra sức giúp đỡ người Trung Quốc,
Trung Quốc Việt Nam như môi với răng.
Phải biết rằng môi hở thì răng lạnh,
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
Bình Sơn
4- 12- 1940
Dịch thơ:
CỨU TRUNG QUỐC LÀ TỰ CỨU MÌNH
Nhật Bản phát xít ở phương Đông,
Dã man cuồng bạo lại tàn hung.
Vào Trung Hoa gây chiến xâm lược,
Nhân dân Trung Quốc khổ vô cùng.
Người thì bị giết, nhà bị thiêu,
Núi đầy xương, đất đầy máu đỏ.
Tàu bay, bom đạn, tránh làm sao?
Đói rét, ốm đau, sống thật khó.
Họ đang đấu tranh rất gian khổ,
Giữ gìn dân chủ và hoà bình.
Họ đang cần có người viện trợ,
Họ đang cần được sự đồng tình.
Giặc Nhật tấn công cả thế giới,
Là kẻ thù chung toàn nhân loại.
Mau đứng lên mà giúp Trung Hoa,
Anh chị em Việt Nam ta hỡi!
Ra sức giúp cho người Trung Quốc,
Trung Việt khác nào môi với răng.
Nhớ rằng môi hở thì răng buốt,
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.

Bình Sơn
4- 12- 1940

Hạ Diễn năm 1994

Hạ Diễn là một nhà văn hóa lớn của Trung Quốc sinh ra ở Chiết Giang năm 1900. Ông đồng thời là một nhà văn, nhà báo nhà viết kịch, dịch giả, nhà phê bình văn học, nhà xã hội học và đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ văn hóa của Trung Quốc, ông mất ngày mồng 6 tháng 2 năm 1995 ở Bắc Kinh. Năm 1981  "Tân văn nghiên cứu tư liệu" đăng bài: "Nhà báo đầu bạc kể chuyện năm xưa" và tờ "Dương thành văn báo" của Trung Quốc cho đăng bài: "Hồi sức về nghề làm báo" của Hạ DIễn, kể lại khá chi tiết và sinh động về thời kỳ ông làm "Cứu vong nhật báo" ở Quế Lâm. Năm 1957, Hạ Diễn dẫn đầu đoàn đại biểu Bộ Văn hóa Trung Quốc sang thăm Việt Nam, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tại phủ chủ tịch. Trong buổi tiếp, nhắc lại chuyện cũ, Người vui vẻ nói với Hạ Diễn và mọi người: "Bài ấy của tôi đồng chí đã trả nhuận bút năm đồng. Năm đồng hồi đó là quý lắm"

Phạm Duy Trưởng
-------
Tài liệu tham khảo:

*Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1990
* Bách khoa toàn thư­ mở tiếng Trung Quốc:

http://zh.wikipedia.org/wiki/%E5%A4%8F%E8%A1%8D
* http://www.hudong.com/wiki/%E5%A4%8F%E8%A1%8D
* http://www.oushe.cn/p/OS2007100110396.html
* http://baike.baidu.com/view/69177.htm