TRẦN BÍCH SAN VÀ BA LẦN QUA HẢI VÂN

Nhất cử đăng khoa thiên hạ hữu/ Tam nguyên liên trúng quốc triều vô
Di tích Hải Vân Quan. Ảnh: Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế.
Trần Bích San (1840-1877) quê làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Ông sinh ngày 4 tháng Giêng năm Canh Tí (1840) tại Cổ Mai Trang (nay là ngôi nhà số 7, phố Bến Ngự, thành phố Nam Định) trong tư gia của thân phụ. Ông là con cả cụ Phó bảng Trần Doãn Đạt. Nổi tiếng thông minh từ thuở nhỏ, được cha rèn cặp đến tuổi khoá sinh, ông theo học các vị danh sư quê nhà. Trần Bích San đi thi, đỗ Tú tài năm 1861, đỗ Giải nguyên trường Nam Định năm 1864, đỗ liền Hội nguyên, Đình nguyên năm 1865. Ông là vị "Tam nguyên liên trúng" duy nhất triều vua Tự Đức. Đến nay, người đời còn truyền tụng hai câu: "Nhất cử đăng khoa thiên hạ hữu/ Tam nguyên liên trúng quốc triều vô", tôn vinh sự nghiệp khoa bảng của vị Tam nguyên tuổi trẻ tài cao.
Những năm được bổ dụng làm Tri phủ Thăng Bình, rồi Tri phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (1867); làm Phó chủ khảo trường thi hương Thừa Thiên, bị giáng làm Tri phủ An Nhơn, Bình Định (1868), rồi được thăng Biện lý sự vụ Bộ Hộ (1869), Trần  Bích San đã mấy lần qua lại vượt đèo Hải Vân "Đệ nhất hùng quan" nước Việt. Trong tập thơ chữ Hán "Mai Nham thi thảo" (Mai Nham là tên hiệu của Trần Bích San), trong đó có bài "Tam quá Hải Vân(Ba lần qua Hải Vân) được nhiều người truyền tụng (bài này nhiều bản chép là "Quá Hải Vân Quan"), chép cả nguyên văn chữ Hán để thưởng thức. Bài thơ có mặt trong các thi tuyển thế kỷ XIX, người ta còn chép như những bức thư pháp chữ Hán in trên lụa, treo trang trọng trong thư phòng những gia đình nền nếp. Một "hiện tượng" yêu thơ của bạn đọc nhiều thế hệ "minh chứng" cho một bài thơ tuyệt bút vượt thời gian trên một thế kỷ qua.








 

Quá Hải Vân quan

Tam niên tam thướng Hải Vân đài,
Nhất điểu thân khinh độc vãng hồi.
Thảo thụ bán không đê nhật nguyệt,
Càn khôn chích nhãn tiểu trần ai!
Văn phi sơn thuỷ vô kỳ khí,
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Mạc đạo Tần quan chinh lộ hiểm,
Mã đầu hoa tận đới yên khai!

 

Dịch nghĩa

Ba năm ba lần lên đèo Hải Vân
Con chim thân nhẹ một mình qua lại
Cây cỏ giữa tầng không, mặt trời mặt trăng đều dưới thấp
Cả đất trời thu vào con mắt, cõi trần coi như nhỏ không
Văn không có sơn thuỷ thì không có khí lạ
Người chưa dãi dầu sương gió thì chưa thể già dặn
Thôi đừng nói đường qua ải Tần là hiểm trở
Nơi đầu ngựa, hoa đều đội mây mà nở


Dịch Thơ

(Bản dịch của Vũ Hoàng Chương)


Ba năm vượt ải đã ba lần
Nhẹ cánh chim trời dạo Hải Vân
Ngắm rộng kiền khôn coi cũng bé
Lên cao nhật nguyệt tưởng đâu gần
Gió sương như búa tài thêm chuốt
Hồ bể làm nghiên bút mới thần
Đầu ngựa rừng hoa chen khói nở
Cười ai kêu hiểm lối sang Tần.


(Bản dịch của Phạm Trọng Thanh)
Ba năm ba chuyến vượt đèo,
Cánh chim qua lại nhẹ vèo biển mây.
Nhật nguyệt thấp, vút trời cây,
Cõi đời khoé mắt vơi đầy càn khôn.
Văn hay hùng khí nước non,
Người không sương gió đâu còn tài trai!
Ải Tần đừng nói chông gai,
Ngựa chen mây Hải Vân đài nở hoa.